Bản án về tội tổ chức đánh bạc và gá bạc số 395/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 395/2022/HS-PT NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC

Ngày 19-9-2022, tại điểm cầu Trung tâm từ trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang với điểm cầu Thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 341/2022/TLPT-HS ngày 09-8-2022 đối với bị cáo Hoàng Minh S cùng đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2022/HS-ST ngày 21-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo bị kháng cáo:

1. Hoàng Minh S, sinh năm 1984, tại Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 6A, xã H4, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Hoàng Minh Đ, sinh năm 1956 và bà Trần Thị T8; vợ là Bạch Thị Thảo Ng, sinh năm 1984 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2006/HS-ST ngày 04-01-2006, Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 12 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, nhưng cho hưởng án treo và 12 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành chung là 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án.

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 27-6-2021, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Các bị cáo kháng cáo:

2. Nguyễn Quốc T, sinh năm 1986, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 4, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Nguyễn Quốc V4, sinh năm 1954 và bà Trần Thị Phương L2, sinh năm 1958; vợ là Giang Thị Kim Q3, sinh năm 1990 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2005/HSST ngày 09-6-2005, Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2012/HSST ngày 11-01-2012, Toà án nhân dân huyện K xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 78/2013/HSST ngày 10-9-2013, Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 27-6-2021, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

3. Kiều Văn T1, sinh năm 1986, tại Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Phước Lộc 3, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Kiều N4 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1954; vợ là Huỳnh Thị L3, sinh năm 1985 và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 16/2012/HS-PT ngày 11-01-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 03-12-2021, được thay đổi bằng biện pháp cho Bảo lĩnh, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

4. Phùng Phước H (tên gọi khác: Chó Thơm), sinh năm 1987, tại Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn P3, xã El, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Thổ; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 1/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Nguyễn Tấn S2, sinh năm 1954 và bà Phùng Thị Th4, sinh năm 1967; vợ là HN, sinh năm 1986 và có 01 con.

Tiền án:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 277/2006/HS-ST ngày 15-11-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 07 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (chấp hành xong hình phạt ngày 19-02-2011, nhưng chưa chấp hành xong phần dân sự).

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 402/2018/HS-PT ngày 27-12-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 10 tháng tù về tội “Đánh bạc” (chấp hành xong hình phạt ngày 30-11-2019).

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 02-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

5. Đào Xuân T2, tên gọi khác: Bé; sinh ngày 25-3-1991, tại Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 4, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đào Mạnh T, sinh năm 1945 và bà Giang Thị Ngọc D, sinh năm 1953.

Tiền án:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 293/2020/HS-ST ngày 11-12-2020, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị tạm giam ngày 03-6-2021; đến ngày 02-4-2022, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

6. Trần Đình H1 (tên gọi khác: H1 Trạm), sinh ngày 01-01-1984, tại Hà Nội; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 5, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 3/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Trần Đình Tr và bà Nguyễn Thị Nh (đều đã chết); vợ là Nguyễn Thị Ngl, sinh năm 1988 và có 02 con.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2012/HS-ST ngày 11-01-2012, Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 03 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Tiền án:

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 330/2015/HS-PT ngày 12-8-2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 11 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 198/2018/HS-PT ngày 19-6-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 27-6-2021, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

7. Trần Anh T3, sinh ngày 09-9-1990, tại Đắk Lắk; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 6, thị trấn PA, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Trần Công Đ3, sinh năm 1961 và bà Đinh Thị Thu H9, sinh năm 1966; vợ là Phạm Thị N2, sinh năm 1990 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2018/HS-ST ngày 07-02-2018, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng.

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 27-6-2021, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

8. Dương Văn P; sinh ngày 17-10-1989, tại Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 11, xã CN, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Dương Văn A, sinh năm 1963 và bà Trần Thị Q3, sinh năm 1965; vợ là Trần Thị H10, sinh năm 1991 và có 01 con.

Tiền án:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HS-ST ngày 28-9-2021, Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 10 tháng tù về tội “Đánh bạc” (bị cáo chưa chấp hành hình phạt của bản án này).

Bị cáo bị tạm giam ngày 29-3-2021; đến ngày 02-4-2022, được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Người tham gia t tụng có liên quan đến kháng cáo:

- Người đại diện hợp pháp; đồng thời, là người kháng cáo cho bị cáo Hoàng Minh S: Ông Hoàng Minh Đ, sinh năm 1956 (bố của bị cáo Sinh); địa chỉ cư trú: Thôn 6A, xã H4, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Xuân Ph - Văn phòng Luật sư L3, Thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk, có mặt tại điểm cầu Thành phần, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

(Vụ án còn có 29 bị cáo khác nhưng không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị và có 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không liên quan đến kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 27-3-2021, Hoàng Minh S, Nguyễn Quốc T, Thái Văn H6, Phạm Phú Q, Trần Văn L, Đào Xuân T2, Kiều Văn T1 tập trung tại nhà bà Nguyễn Thị P (là mẹ ruột của bị cáo T1), địa chỉ thôn Phước Lộc 3, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để uống rượu. Tại đây, S trao đổi với T, H6 về việc thuê nhà bà P để tổ chức cho một số người đánh bạc (dưới hình thức xóc đĩa) được thua bằng tiền để ăn chia lợi nhuận từ việc thu tiền “Xâu” của các con bạc, thì cả ba đồng ý. Đến sáng ngày 28- 3-2021, tại quán cà phê “Kẹo” địa chỉ thôn 4, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, S , T, H6, T1, T2, Phạm Phú Q, Nguyễn Quốc V, Nguyễn Đức T3, Phùng Phước H, Đào Xuân T2, Thủy Ngọc Hải L, Phạm Thái Ng, Đào Huy Đ1 và Lê Văn H7 tiếp tục trao đổi việc tổ chức đánh bạc. S thống nhất với T1, mỗi ngày sẽ trả tiền thuê nhà cho T1 từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng, tùy thuộc vào số lượng con bạc tham gia. Sau đó, S phân chia công việc cho từng bị cáo cụ thể như sau: T có mặt tại nhà T1 để thu hút, tạo uy tín cho các con bạc yên tâm đánh bạc và cho S mượn điện thoại di động Iphone X, kèm theo sim số 0989011011 để S liên lạc gọi các con bạc đến nhà bà P tham gia đánh bạc; H6 giữ trật tự trong tụ điểm đánh bạc, không để các con bạc cãi nhau, đánh nhau, đánh bạc bịp; Q xóc cái để các con bạc đặt cược, mỗi buổi S trả công 500.000 đồng; H, T3 chung chi tiền được thua giúp các con bạc (Hồ lì), mỗi buổi S trả công 500.000 đồng/01 người; L nấu cơm phục vụ các con bạc, mỗi ngày S trả công 200.000 đồng; Đào Xuân T2 trực tiếp thực hiện và bố trí Đào Huy Đ1, Thủy Ngọc Hải L, Phạm Thái Ng, Lê Văn H7 canh gác, cảnh giới bên ngoài tụ điểm đánh bạc, nếu phát hiện Công an sẽ thông báo cho các con bạc, mỗi buổi S trả công 300.000 đồng/01 người; V cầm tiền phục vụ việc S đánh bạc, nếu thắng S đưa tiền cho V cất, nếu thua S sẽ lấy tiền từ V để thanh toán cho các con bạc rồi tất cả các bị cáo trên đến nhà bà P. S chuẩn bị 01 tấm bạt màu xanh, 01 chén sứ, 01 đĩa sứ, 04 con vị hình tròn được cắt từ lá bài Tây, 01 hộp làm bằng nhôm dùng đựng tiền xâu, 03 bàn Senko để phục vụ việc đánh bạc. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, một số người có mặt tại nhà bà P để cùng nhau đánh bạc. S thống nhất với các con bạc căn cứ vào kết quả xóc đĩa, nếu xuất hiện 03 mặt đen sẽ thu “Xâu” 05% trên tổng số tiền thắng cược, đồng thời S đặt 03 bàn Senko dọc theo tấm bạt để trực tiếp được thua với các con bạc. Đến khi kết thúc buổi đánh bạc, S trả tiền thuê nhà cho T1 1.500.000 đồng và trả tiền công cho Q, T3, H, V, Văn L, T2, Đ1, Ng, Hải L và H7 như thỏa thuận từ trước, riêng Trần Văn L được S cho thêm 100.000 đồng, còn lại 9.000.000 đồng, S thống nhất với T, H6 không chia, khi nào tiền thu “Xâu” nhiều hơn sẽ chia sau. Đến trưa ngày 29-3- 2021, các bị cáo có mặt tại nhà bà P để tiếp tục tổ chức đánh bạc. Sau đó, Thái Văn T1, Huỳnh Nhật T4, Châu Di Th, Nguyễn Trọng B, Lâm Đại Q1, Dương Văn P, Trần Đình H1 , Nguyễn Tấn S1, Bùi Văn G, Phạm Đình Đ2, Trần Anh T3, Hồ Văn Th2, Phạm Thị Đ4, San Thị Ánh T5, Lê Thị Mỹ Tr, Nguyễn Thị Hồng Th3, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H8, Nguyễn Thị V1, Nguyễn Thị H9, Đào Thị Th4, Châu Ngọc V3, Hoàng Hữu C1, Phạm Thanh T6, Nguyễn Văn D1 có mặt tại nhà bà P để cùng nhau đánh bạc. Trước lúc mọi người đánh bạc, S đưa cho V 55.000.000 đồng để V cầm khi nào cần thì S sẽ lấy để đánh bạc, nhưng S chưa sử dụng đến số tiền này, vì S đánh bạc thắng. Đến khoảng 16 giờ ngày 29-3-2021, thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk bắt quả tang.

- Hình thức đánh bạc chẵn - lẻ:

Được phân chia thành 02 bên chẵn, lẻ và quy ước bên tay phải của người xóc cái là “Chẵn”, bên tay trái là “Lẻ”. Vật dụng được sử dụng để đánh “Xóc đĩa” gồm tấm bạt, chén, đĩa, 04 con vị hình tròn được cắt từ lá bài Tây và quy định mặt lưng của lá bài là mặt đen, mặt còn lại là mặt trắng. Bốn con vị được để trong 01 cái đĩa bên trên đậy bằng 01 cái chén để xác định kết quả là chẵn hay lẻ. Kết quả: Chẵn khi xuất hiện các trường hợp: 04 mặt trắng, 04 mặt đen, 02 mặt trắng, 02 mặt đen; Lẻ khi xuất hiện các trường hợp: 01 mặt trắng, 03 mặt đen hoặc 01 mặt đen, 03 mặt trắng. Người xóc cái cầm chén đĩa lắc lên xuống nhiều lần liên tục để xáo trộn các con vị và thông báo cho người chơi đặt cược, người chơi có quyền lựa chọn bên chẵn hay bên lẻ tùy ý và đặt tiền cược xuống chiếu. Sau đó, người xóc cái mở chén, nếu có kết quả bên chẵn thắng thì lấy tiền bên lẻ thanh toán cho bên chẵn và ngược lại, tỷ lệ thắng thua là 1-1; trong trường hợp nếu người xóc cái nói lẻ thừa hoặc chẵn thừa, nếu ai muốn thì nhận mở chén và chịu trách nhiệm thắng thua với số tiền thừa.

- Hình thức đánh bạc Senko:

Các bị cáo sử dụng 01 tấm bạt hình vuông bên trên được chia thành 04 phần bằng nhau, gồm 01 phần có hình 03 chấm tròn màu trắng, 01 phần có hình 03 chấm tròn màu đen, 01 phần có hình 04 chấm tròn màu trắng, 01 phần có hình 04 chấm tròn màu đen (đây được gọi là bàn Senko). Căn cứ kết quả xóc đĩa, nếu người chơi đặt cược 03 mặt trắng hoặc 03 mặt đen sẽ thắng được số tiền gấp 2,5 lần tiền gốc; 04 mặt trắng, 04 mặt đen người thắng cược sẽ nhận được số tiền gấp 09 lần tiền gốc; nếu thua chỉ mất số tiền đặt cược ban đầu.

Người chơi có quyền lựa chọn một trong hai hình thức “Chẵn - lẻ” hoặc “Senko” để đặt cược, hoặc có thể tham gia hai hình thức cùng một lúc.

- Số tiền các bị cáo đã sử dụng để tổ chức đánh bạc và đánh bạc:

Huỳnh Nhật T4 sử dụng 900.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 500.000 đồng; Châu Di Th sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 2.200.000 đồng; Nguyễn Trọng B sử dụng 50.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 9.800.000 đồng; Lâm Đại Q1 sử dụng 6.600.000 đồng để đánh bạc, kết quả tháng 3.000.000 đồng; Trần Đình H1 sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này; Dương Văn P mang theo 30.000.000 đồng, cho Phạm Đình Đ2 vay 10.000.000 đồng, còn lại 20.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, kết quả thắng 20.600.000 đồng; Nguyễn Tấn S1 sử dụng 7.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 400.000 đồng; Bùi Văn G sử dụng 30.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 14.500.000 đồng; Phạm Đình Đ2 mang theo 1.200.000 đồng, vay của Dương Văn P 10.000.000 đồng. Tổng cộng, bị cáo Được sử dụng 11.200.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 9.200.000 đồng; Trần Anh T3 sử dụng 3.300.000 đong để đánh bạc, kết quả thua 3.000. 000 đồng; Hồ Văn Th2 sử dụng 9.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 3.300.000 đồng; Thái Văn T1 sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này; Phạm Thị Đ4 sử dụng 15.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này; San Thị Ánh T5 sử dụng 4.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 1.000.000 đồng; Lê Thị Mỹ Tr sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này; Nguyễn Thị Hồng Th3 sử dụng 1.100.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 500.000 đồng; Nguyễn Thị H sử dụng 3.200.000 đồng để đánh bạc, kết quả thắng 2.800.000 đồng; Nguyễn Thị H8 sử dụng 27.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thắng 2.800.000 đồng; Nguyễn Thị VI sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 500.000 đồng; Nguyễn Thị H9 sử dụng 700.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này; Đào Thị Th4 sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 2.000.000 đồng; Hoàng Hữu C1 sử dụng 13.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 950.000 đồng; Châu Ngọc V3 sử dụng 4.900.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua 500.000 đồng; Phạm Thanh T6 sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này và Nguyễn Văn DI sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, kết quả thua hết số tiền này.

Các bị cáo Hoàng Minh S, Nguyễn Quốc T, Thái Văn H6 thu lợi từ hành vi tổ chức đánh bạc trong ngày 28-3-2021 là 9.000.000 đồng và ngày 29-3-2021 là 4.500.000 đồng. Bị cáo Kiều Văn T1 thu lợi từ hành vi gá bạc trong ngày 28-3- 2021 là 1.500.000 đồng. Trong ngày 28-3- 2021, các bị cáo Phạm Thái Ng thu lợi 300.000 đồng, Trần Văn L thu lợi 300.000 đồng, Phùng Phước H thu lợi 500.000 đồng, Phạm Phú Q thu lợi 500.000 đồng, Nguyễn Đức T3 thu lợi 500.000 đồng, Thủy Ngọc Hải L thu lợi 300.000 đồng, Đào Huy Đ1 thu lợi 300.000 đồng, Lê Văn H7 thu lợi 300.000 đồng và Đào Xuân T2 thu lợi 300.000 đồng.

Trong ngày 29-3-2021, các bị cáo Hoàng Minh S, Nguyễn Quốc V, Thái Văn T1, Huỳnh Nhật T4, Châu Di Th, Nguyễn Trọng B, Lâm Đại Q1, Trần Đình H1 , Dương Vãn p, Nguyễn Tấn S1, Bùi Văn G, Phạm Đình Đ2, Trần Anh T3, Hồ Văn Th2, Phạm Thị Đ4, San Thị Ánh T5, Lê Thị Mỹ Tr, Nguyễn Thị Hồng Th3, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H8, Nguyễn Thị V1, Nguyễn Thị H9, Đào Thị Th4, Châu Ngọc V3, Hoàng Hữu C1, Phạm Thanh T6, Nguyễn Văn D1 đã sử dụng tổng 598.500.000 đồng để đánh bạc. Trong đó, 338.500.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc, 229.050.000 đồng các bị cáo sử dụng để đánh bạc, 21.000.000 đồng S thắng được từ hai bàn Senko, còn 10.000.000 đồng là số tiền Trần Thị Phương Linh nhặt tại chiếu bạc.

- Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm s 82/KLGĐ ngày 24-4-2022, Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận đối với Hoàng Minh S:

“Trước khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 29-3-2021, Hoàng Minh S bị bệnh: Rối loạn cảm xúc không biệt định + Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất gây nghiện (F39+F11-ICD10).

Trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 29-3-2021, Hoàng Minh S bị bệnh: Rối loạn cảm xúc không biệt định + Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất gây nghiện, giai đoạn ổn định (F39+F11-ICD10).

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 29-3-2021 và hiện tại Hoàng Minh S bị bệnh: Rối loạn cảm xúc không biệt định; rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất gây nghiện (F39+F11-ICD10).

- Kết luận về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi:

Trước khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 29-3-2021, Hoàng Minh S bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Trong khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 29-3-2021, Hoàng Minh S đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 29-3-2021 và hiện tại, Hoàng Minh S bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi”.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 55/2022/HS-ST ngày 21-6-2022, Toà án nhân dân tỉnh Đk Lk quyết định:

1. Áp dụng các điểm a, c, d khoản 1 Điều 322; điểm b khoản 2 Điều 321; các điểm q, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Hoàng Minh S 02 (hai) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

2. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Quốc T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

3. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Kiều Văn T1 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Gá bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 03-12-2021).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

4. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Phùng Phước H 05 (năm) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 02-4-2022).

5. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Đào Xuân T2 03 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 293/2020/HS-ST ngày 11-12-2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-6-2021 đến ngày 02- 4-2022).

6. Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 321; các điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Đình H1 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

7. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Anh T3 03 (ba) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

8. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Dương Văn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HS-ST ngày 28-9-2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (bốn) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-12-2020 đến ngày 06-12-2020 và từ ngày 29-3-2021 đến ngày 02-4-2022).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung đối với 29 bị cáo khác; truy thu tiền thu lợi bất chính của các bị cáo; quyết định xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

- Ngày 25-6-2022, ông Hoàng Minh Đ là người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Minh S kháng cáo xin giảm hình phạt, đồng thời miễn hình phạt cho bị cáo S.

- Ngày 28-6-2022, các bị cáo Kiều Văn T1, Trần Đình Hoà, Nguyễn Quốc T kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 29-6-2022, bị cáo Dương Văn P kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 01-7-2022, bị cáo Phùng Phước H kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 27-6-2022, các bị cáo Đào Xuân T2, Trần Anh T3 kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, 07 bị cáo kháng cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Minh S kháng cáo bản án. Đơn kháng cáo của các bị cáo và của người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Minh S là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa, các bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Mỉnh S giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phùng Phước H, Kiều Văn T1, Dương Văn P và Đào Xuân T2.

- Chấp nhận một phần kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Minh S.

- Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Đình Hoà, Nguyễn Quốc T và Trần Anh T3.

Tại phần tranh luận, người bào chữa cho bị cáo Hoàng Minh S thống nhất với tội danh mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định, nhưng cho rằng bị cáo S bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, q khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, miễn hình phạt cho bị cáo và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo và bị cáo Hoàng Minh S thống nhất quan điểm của người bào chữa, không tranh luận gì thêm.

Các bị cáo khác không tranh luận, chỉ xin giảm hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Ngày 29-3-2021, Hoàng Minh S thỏa thuận với Kiều Văn T1 sử dụng nhà của bà Nguyễn Thị P (mẹ của T1) để cùng các bị cáo Nguyễn Quốc T, Phùng Phước H, Đào Xuân T2 tổ chức cho Trần Đình H1, Dương Văn P, Trần Anh T3 và các bị cáo khác đánh bạc bằng hình thức “Xóc đĩa”, được thua bằng tiền. Ngoài ra, Hoàng Minh S còn sử dụng 55.000.000 đồng để trực tiếp đánh bạc bằng hình thức “Senko”, được thua bằng tiền với các đối tượng khác. Trong lúc các bị cáo đang tổ chức đánh bạc và đánh bạc thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang, tạm giữ trên chiếu bạc 338.450.000 đồng và 34.500.000 đồng tiền “Xâu”, cùng các phương tiện phục vụ việc đánh bạc.

Với hành vi phạm tội nhu nêu trên, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk kết án bị cáo Hoàng Minh S về tội ‘Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” theo các điểm a, c, d khoản 1 Điều 322 và điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự; kết án bị cáo Kiều Văn T1 về tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; kết án các bị cáo Nguyễn Quốc T, Đào Xuân T2 về tội “Tổ chức đánh bạc” theo các điểm a, c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; kết án bị cáo Phùng Phước H về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm d khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; kết án bị cáo Trần Đình H1 về tội “Đánh bạc” theo các điểm b, d khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự và kết án các bị cáo Dương Văn P, Trần Anh T3 về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra là nghiêm trọng, các bị cáo có đủ năng lực hành vi để nhận thức được việc tổ chức đánh bạc, gá bạc và đánh bạc là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn thu lợi bất chính, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân. Với hành vi phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt các bị cáo từ 01 năm 02 tháng tù đến 05 năm tù. Các bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét, đánh giá hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có mức hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo.

[2.2.1]. Đối với các bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc”:

- Đối với bị cáo Hoàng Minh S :

Bị cáo là người lên kế hoạch và bàn bạc với Thái Văn H6 và Nguyễn Quốc T thuê nhà của mẹ bị cáo Kiều Văn T1 để tổ chức đánh bạc. Số tiền thu được từ việc tổ chức đánh bạc được S, H6 và T chia nhau hưởng lợi. Bị cáo là người chuẩn bị các công cụ, phương tiện cho việc đánh bạc; trực tiếp thỏa thuận, thống nhất với các con bạc về hình thức, cách thức chơi; trả tiền thuê nhà cho T1, cũng như tiền công cho các bị cáo khác giúp sức cho mình trong việc tổ chức đánh bạc; trực tiếp phân công nhiệm vụ cho các bị cáo khác trong quá trình tổ chức đánh bạc. Ngoài hành vi tổ chức cho các đối tượng khác đánh bạc, bị cáo còn trực tiếp đánh bạc bằng hình thức “Senko”. Do đó, bị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 03 năm 03 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Bị cáo không kháng cáo, nhưng người đại diện hợp pháp của bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố bị cáo bị bệnh tim nặng, thường xuyên phải điều trị bệnh và tại Toà án cấp phúc thẩm người đại diện hợp pháp của bị cáo đã nộp đủ tiền phạt, theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hỉnh sự. Như vậy, tại Toà án cấp phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo về tội “Đánh bạc”.

- Đối với Nguyễn Quốc T:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người giúp sức, được bị cáo Hoàng Minh S giao nhiệm vụ có mặt tại tụ điểm đánh bạc để thu hút các con bạc đến tham gia. Quá trình tổ chức đánh bạc, bị cáo cho S mượn điện thoại để S liên hệ với các con bạc đến tham gia đánh bạc, do đó cũng cần xử phạt bị cáo hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình và tại cấp phúc thẩm bị cáo đã nộp đủ tiền phạt, theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hỉnh sự. Như vậy, tại Toà án cấp phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Đối với Phùng Phước H:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người giúp sức cho bị cáo S , bị cáo được giao thực hiện nhiệm vụ chung tiền thắng thua cho các con bạc và được S trả tiền công 500.000 đồng/buổi. Với hành vi phạm tội này, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt bị cáo 05 năm tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và tại Toà án cấp phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cung cấp được chứng cứ, tài liệu để chứng minh bị cáo đã chấp hành xong bản án trước đó và cho rằng lần phạm tội này chỉ thuộc trường hợp “Tái phạm”; ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình; đồng thời, trong vụ án này, bị cáo tham gia với vai trò là người giúp sức. Do đó, để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Đối với Đào Xuân T2:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người giúp sức, nhiệm vụ của bị cáo là trực tiếp canh gác, cảnh giới và thông báo cho các con bạc khi bị phát hiện, do đó bị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 03 năm tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, nhưng tại Toà án cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được chứng cứ, tài liệu để chứng minh có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới; đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; nhân thân bị cáo đã 01 lần bị kết án, chưa được xoá án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm”. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[2.2.2]. Đối với bị cáo phạm tội “Gá bạc”:

Bị cáo Kiều Văn T1 sử dụng nhà của mẹ mình để cho Hoàng Minh S tổ chức đánh bạc để nhận tiền “Hồ” từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng/ngày. Với hành vi phạm tội này, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo 01 năm 02 tháng tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, nhưng tại Toà án cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được chứng cứ, tài liệu để chứng minh có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới; đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; nhân thân của bị cáo không tốt, đã từng bị kết án về tội “Cố ý gây thương tích”. Do đó, để cải tạo, giáo dục bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[2.2.3]. Đối với các bị cáo phạm tội “Đánh bạc”:

- Đối với Dương Văn P:

Bị cáo sử dụng 20.000.000 đồng để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, được thua bằng tiền, nên bị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 06 tháng tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, nhưng tại Toà án cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được chứng cứ, tài liệu để chứng minh có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới; đồng thời, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; nhân thân bị cáo đã bị 01 lần kết án, chưa được xoá án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm”. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Đối với Trần Anh T3:

Bị cáo sử dụng 3.300.000 đồng để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, được thua bằng tiền, nên bị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm 02 tháng tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người trực tiếp chăm sóc Mẹ Việt Nam anh hùng; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình và tại Tòa án cấp phúc thẩm bị cáo đã nộp đủ tiền phạt, theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, tại Toà án cấp phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Đối với Trần Đình Hoà:

Bị cáo sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, được thua bằng tiền, nên bị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình và tại cấp phúc thẩm bị cáo đã nộp đủ tiền phạt, theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, tại Toà án cấp phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của các bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, nhưng chỉ có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phùng Phước H, Nguyễn Quốc T, Trần Đình Hoà, Trần Anh T3 và chấp nhận một phần kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Minh S.

[3]. Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk còn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Hoàng Minh S, Nguyễn Quốc T, Kiều Văn T1, Phùng Phước H và Dương Văn P, mỗi bị cáo 20.000.000 đồng; Trần Đình H1 và Trần Anh T3, mỗi bị cáo 10.000.000 đồng. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đối với hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên hình phạt bổ sung mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[5]. Về án phí: Các bị cáo không được chấp nhận kháng cáo phải chịu án phí hành sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đào Xuân T2, Kiều Văn T1 và Dương Văn P.

- Chấp nhận một phần kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Minh S .

- Chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo Phùng Phước H, Trần Anh T3, Trần Đình Hoà và Nguyễn Quốc T.

- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2022/HS-ST ngày 21-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về Phần hình phạt chính đối với các bị cáo Hoàng Minh S, Phùng Phước H, Nguyễn Quốc T, Trần Đình Hoà và Trần Anh T3.

2. Về hình phạt:

Nhóm các bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và “Gá bạc”:

2.1. Áp dụng các điểm a, c, d khoản 1 Điều 322; điểm b khoản 2 Điều 321; các điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 (đối với tội “Đánh bạc”), điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Hoàng Minh S 02 (hai) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành chung là 04 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3- 2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

(Bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 60AA/2021/0006356 ngày 16-9-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

2.2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Phùng Phước H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 02-4-2022).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

2.3. Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 ; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Đào Xuân T2 03 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 293/2020/HS-ST ngày 11-12-2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-6-2021 đến ngày 02-4-2022).

2.4. Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Quốc T 09 (chín) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước. (Bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 60AA/2021/0006355 ngày 15-9-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

2.5. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Kiều Văn T1 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Gá bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 03-12-2021).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Nhóm các bị cáo phạm tội “Đánh bạc”:

2.6. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Dương Văn P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp với hình phạt 10 (mười) tháng tù về tội “Đánh bạc” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2021/HS-ST ngày 28-9-2021 của Tòa án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (bốn) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 03-12-2020 đến ngày 06-12-2020 và từ ngày 29-3-2021 đến ngày 02-4-2022).

- Phạt bổ sung 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

2.7. Áp dụng các điểm b, d khoản 2 Điều 321; các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Đình H1 02 (hai) năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước. (Bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 60AA/2021/0006354 ngày 15-9-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

2.8. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Anh T3 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29-3-2021 đến ngày 27-6-2021).

- Phạt bổ sung 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước. (Bị cáo đã nộp xong tiền phạt, theo Biên lai thu tiền số 60AA/2021/0006353 ngày 13-9-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk).

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ các điểm b, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Dương Văn P, Đào Xuân T2 và Kiều Văn T1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

- Các bị cáo Hoàng Minh S, Phùng Phước H, Nguyễn Quốc T, Trần Đình Hoà và Trần Anh T3 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc và gá bạc số 395/2022/HS-PT

Số hiệu:395/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về