Bản án về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc số 61/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 61/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Ninh G, sinh năm 1985 tại Bắc Ninh; HKTT: Số 02, ngõ 411, Ngô Gia Tự, phường Tiền An, thành phố B, tỉnh B; Nơi ở hiện nay: căn số 07, tầng 16, Chung cư Đông Dương, phường Kinh Bắc, thành phố B, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hoàng Huy H (đã chết) và bà Phạm Minh T, sinh năm 1962; gia đình có: 3 anh, chị em, bị cáo là thứ 2; vợ: Trương Thị M, sinh năm 1991; con: có 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: không;

Bị tạm giữ từ ngày 18/01/2022 đến 24/01/2022 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. Đỗ Danh D, sinh năm 1983 tại Bắc Ninh; HKTT: số 24, Nguyễn Chiêu Huấn, phường T, thành phố B, tỉnh B; nơi ở hiện nay: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đỗ Danh B, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1958; gia đình có: 2 chị em, bị cáo là thứ 2; vợ: 1 Hoàng Thùy L, sinh năm 1983; con: có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không;

Bị tạm giữ từ ngày 18/01/2022 đến 20/01/2022 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

3. Nguyễn Viết Đ, sinh năm 1986 tại Bắc Ninh; HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Viết Đ(đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1965; gia đình có: 3 anh, chị em, bị cáo là lớn nhất; vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1988; con: có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh 2014; tiền án, tiền sự: không;

Bị tạm giữ từ ngày 18/01/2022 đến 24/01/2022 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

4. Hà Thị H, sinh năm 1989 tại Phú Thọ; HKTT: thôn T, xã X, huyện Y, tỉnh Y; chỗ ở hiện nay: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hà Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1969; gia đình: có 4 anh, chị em, bị cáo là thứ 2; chồng: Lạc Văn C, sinh năm 1992; con: có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh 2018; tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 18/01/2022 đến 24/01/2022 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

5. Nguyễn Thị M, sinh năm 1989 tại Bắc Ninh; HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Thừa T, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1955; gia đình: có 5 anh, chị em, bị cáo là thứ 4; chồng: Nguyễn Quang K, sinh năm 1985; con: có 03 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh 2017; tiền án, tiền sự: không;

Bị tạm giữ từ ngày 18/01/2022 đến 24/01/2022 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

6. Nguyễn Văn D1, sinh năm 1978 tại Bắc Ninh; HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Tài N, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; gia đình: có 4 anh, chị em, bị cáo là thứ 3; vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1982; con: có 03 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh 2012; tiền án, tiền sự: không;

Bị tạm giữ từ ngày 20/01/2022 đến 24/01/2022 thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hoàng Sĩ D2, sinh năm 1995; HKTT: thôn P, xã H Thái, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.

Chỗ ở hiện nay: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B. Vắng mặt.

2. Anh Ngân Văn O, sinh năm 1993; HKTT: B, xã Yên Thắng, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.

Chỗ ở hiện nay: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Tài Y, sinh năm 1989; HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B. Vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Viết H, sinh năm 1974; HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B. Vắng mặt.

5. Anh Nguyễn Quang P, sinh năm 1989; HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18h ngày 17/01/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an tỉnh BPi hợp với Công an thành phố Bắc Ninh, Công an phường Kinh Bắc và Công an huyện Q, Công an xã P đồng loạt bắt quả tang Hoàng Ninh G sinh năm 1985, hộ khẩu thường trú (HKTT) số 02, ngõ 411, Ngô Gia Tự, phường T, thành phố B, tỉnh B. Nơi ở: căn hộ số 7, tầng 16, chung cư Đ, phường K, thành phố B, tỉnh B đang sử dụng máy tính laptop đăng nhập ứng dụng zalo nhận (mua bán) số lô đề với Đỗ Danh D sinh năm 1963, HKTT: số 24, Nguyễn Chiêu Huấn, phường T, thành phố B, tỉnh B . Nơi ở: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B và các đối tượng mua, bán số lô, đề như sau:

Tại căn hộ số 7, tầng 16, chung cư Đ, phường K, thành phố B, tỉnh B Hoàng Ninh G đang nhận các số lô, đề do Đỗ Danh D chuyển (tải) lên nhóm zalo có tên “Ad17” ( nhóm Ad17). Vật chứng thu giữ: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Macbook đã qua sử dụng; 01 điện thoại Iphone 8 đã qua sử dụng; 01 điện thoại SamSung Note 10 đã qua sử dụng và 34 trang tài liệu in ra từ máy tính Macbook có nội dung mua, bán các số lô, số đề, Hoàng Ninh G ký xác nhận.

Tại thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B bắt quả tang:

1. Nguyễn Thị M sinh năm 1989, HKTT: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B đang bán các số lô, đề cho Hoàng Sĩ D2 sinh năm 1995, HKTT: thôn P, xã H Thái, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và Ngân Văn O sinh năm 1993, HKTT: B, xã Yên Thắng, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa (D2 và O đang tạm trú tại thôn G, xã P). Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại Sam sung vỏ màu đen; 01 điện thoại Sam sung vỏ màu xanh; 2.400.000 vnđ; 01 bút bi thiên long; 01 bản cáp ghi số lô, đề và 02 cáp nhỏ ghi số lô, đề có chữ ký của M, D2, Ọi.

2. Hà Thị H sinh năm 1989, HKTT: thôn T, xã X, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Chỗ ở: thôn G, xã P, huyện Q, tỉnh B đang sử dụng điện thoại Iphone đăng nhập tài khoản zalo “Tt” chuyển các số lô, đề cho tài khoản zalo “Gl” của Đỗ Danh D. Vật chứng thu giữ: 01 tờ cáp đề viết trên khổ giấy A4 có chữ ký xác nhận của H; 01 bút bi màu đen; 01 điện thoại Iphone và 1.425.000 đồng.

3. Nguyễn Viết Đ sinh năm 1986, HKTT: thôn G, xã P, huyện Q đang bán các số lô, đề cho Nguyễn Tài Y sinh năm 1989 là người cùng thôn với Đ. Vật chứng thu giữ: 01 bảng cáp ghi số lô, đề có chữ ký xác nhận của Đ; 01 điện thoại Vivo imei1: 862310052578879, trong có sim số 0376795.372.

Ngày 18/01/2022 Đỗ Danh D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an tỉnh Bắc Ninh xin đầu thú khai nhận: Ngày 17/01/2022 D nhận các bảng cáp đề của các thư ký đề là: Đ, M, H và 3 người đàn ông D không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Sau khi nhận các bảng cáp đề D chuyển các số lô, đề vào nhóm Ad17 cho G.

Ngày 20/01/2022 Nguyễn Văn D1 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an tỉnh B xin đầu thú khai nhận: Ngày 17/01/2022 D1 nhắn tin cho Đ mua 14 số lô = 600 điểm lô với giá 22.500 đồng/ 1 điểm, tổng số tiền D1 mua các số lô với Đ là 13.500.000 đồng, D1 ký xác nhận các số lô trong bản cáp đề của Đ.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B làm rõ được như sau:

Khoảng tháng 11/2021 Hoàng Ninh G và Đỗ Danh D (anh rể G) bàn bạc thống nhất cùng nhau mua, bán trái phép các số lô, đề. Hàng ngày D nhận các bảng cáp đề của những người bán số lô, đề (thư ký đề) rồi chuyển bằng tin nhắn zalo cho G. G là người chịu trách nhiệm tính thắng, thua và chi trả tiền trúng số cho người mua số (G được gọi là chủ đề); G, D thỏa thuận tiền mua, bán số đề là 82% trên tổng số tiền bán số đề, tiền bán số lô xiên là 70%, 01 điểm lô là 21.700 đồng/ 1 điểm. Sau đó G lập 02 tài khoản zalo có tên “Peter” và “JIMY” (tài khoản “Peter” và “JIMY”); D lập tài khoản zalo “Gl” ( tài khoản “Gl)” để mua, bán số lô, đề. Từ 2 tài khoản “Peter” và “JIMY” G tạo nhóm chát Ad17 sau thêm (add) tài khoản “Gl” của D vào nhóm. Khi D chuyển các số lô, đề lên nhóm Ad17 thì G đăng nhập tài khoản “Peter” để theo dõi sau đó sắp xếp, tổng hợp lại rồi sử dụng tài khoản “JIMY” nhắn vào nhóm Ad17 các số lô, đề đó kèm theo số thứ tự tin nhắn và ký tự “OK” thể hiện G đã nhận mua, bán các số lô, đề này với D. Để có số lô, đề D thỏa thuận với Nguyễn Viết Đ, Hà Thị H, Nguyễn Thị M và 3 người đàn ông D không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ làm thư ký đề cho D. D thỏa thuận với các thư ký đề giá mua, bán số đề là 85%, giá số lô xiên là 80% trên tổng số tiền bán số, 01 điểm lô là 22.000 đồng/ 1 điểm. Đ, H, M chuyển các số lô, đề cho D bằng ứng dụng zalo. Việc thanh toán tiền thắng thua giữa G với D cũng như giữa D với các thư ký đề thực hiện vào ngày hôm sau. Đối với 3 người đàn ông D không quen biết thì D đến cổng làng G để nhận cáp đề và thanh toán tiền.

Ngày 17/01/2022 Đỗ Danh D khai D sử dụng điện thoại di động Iphone7 đăng nhập tài khoản “Gl” chuyển, tải các số lô, đề D đã nhận của các thư ký đề vào nhóm chát Ad17, Hoàng Ninh G sử dụng máy tính laptop Macbook đăng nhập tài khoản “Peter” và điện thoại di động 01 điện thoại SamSung Note 10 đăng nhập tài khoản “JIMY” để xác nhận mua bán các số lô, đề do D tải lên gồm: tiền bán số đề: 28.295.000 đồng, tiền bán số lô xiên: 910.000 đồng và số lô là 5.884 điểm. Theo thỏa thuận giữa G với D thì số tiền mua, bán số lô, đề G phải thanh toán cho D là: (28.295.000 đồng x 82%) + (910.000 đồng x 70%) + (5.884 x 21.700 đồng) = 151.521.700 đồng.

Ngoài các số lô, đề D đã nhận của các thư ký và đã chuyển vào nhóm Ad17 được Hoàng Ninh G xác nhận mua, bán thì D đã nhận số đề 55= 2.000.000 đồng chuyển cho G nhưng G không xác nhận và 10 số đề đầu 0, 10 số đề đầu 1, mỗi số 50.000 đồng (= 1.000.000 đồng) G không nhận vì quá giờ; 3 số đề 10 cửa có tổng số tiền 500.000 đồng và 5 số đề 3 càng có tổng số tiền 170.000 đồng do Hà Thị H bán chuyển cho D nhưng D chưa kịp chuyển cho G thì bị lực lượng công an đồng loạt bắt quả tang. Như vậy, ngày 17/01/2022 Đỗ Danh D đã nhận và chuyển cho Hoàng Ninh G: 28.295.000 đồng tiền bán số đề, đã nhận tiền bán số đề của thư ký nhưng G không xác nhận mua bán: 3.000.000 đồng; chưa kịp chuyển tiền bán số đề của Hà Thị H cho G: 670.000 đồng. Tổng số tiền đề D đã nhận của các thư ký ngày 17/01/2022 là 31.965.000 đồng, theo thỏa thuận với các thư ký thì tổng số tiền Đỗ Danh D phải thanh toán cho các thư ký: (31.965.000 đồng x 85%) + (910.000 đồng x 80%) + (5.884 điểm x 22.000đồng/1 điểm) = 157.364.250 đồng. Đối chiếu các số lô, đề, bảng cáp đề Đỗ Danh D đã chuyển, tải lên nhóm Ad17 và các bảng cáp đề thu được của Nguyễn Viết Đ, Hà Thị H, Nguyễn Thị M thì hành vi mua, bán số đề của các bị cáo Đ, D1, H, M và những người có liên quan như sau:

Ngày 17/01/2022 Nguyễn Viết Đ vừa bán trực tiếp bán số lô, đề cho người mua số tại quán cầm đồ của Đ ở làng G vừa sử dụng tài khoản zalo “Có Trí Thì Lên” bán số lô, đề qua ứng dụng zalo. Tổng số tiền số đề Đ bán được là 6.130.000 đồng, tổng số tiền bán lô xiên là 40.000 đồng, số lô Đ bán được 1.290 điểm với giá 23.000 đồng/1 điểm lô. Như vậy trong ngày 17/01/2022 Đ bán các số lô, đề được tổng số 35.840.000 đồng. Sau khi bán được các số lô, đề Đ ghi vào 01 tờ giấy học sinh sử dụng điện thoại Vivo đăng nhập tài khoản “Có Trí Thì Lên” gửi toàn bộ thông tin các số lô, đề cùng tiền bán số vào tài khoản “Gl” cho D. Theo thỏa thuận với D thì Đ phải thanh toán tiền mua, bán số lô, đề với D là (tiền bán số đề 6.130.000 đồng x 85%) + ( tiền bán số lô: 1.290 điểm x 22.000 đồng/1 điểm) + (tiền bán số lô xiên: 40.000 đồng x 80%) = 33.622.500 đồng. Khi lực lượng công an vào bắt quả tang Đ đã xóa các tin nhắn mua, bán số lô, đề với D. Đấu tranh xét hỏi Đ và các đối tượng mua, bán số lô, đề với Đ xác định được ngày 17/01/2022 ngoài Nguyễn Tài Y thì Đ còn mua, bán số lô, đề với Nguyễn Văn D1 sinh năm 1978, Nguyễn Viết H sinh năm 1974, Nguyễn Quang P sinh năm 1989 đều là người cùng thôn với Đ, cụ thể như sau:

Nguyễn Văn D1 sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280, gắn sim số 0961.116.871 nhắn tin sms cho Đ mua 600 điểm lô với giá 23.000 đồng/1 điểm. Tổng số tiền D1 mua số lô với Đ là 13.800.000 đồng, D1 chưa trả tiền mua số cho Đ. D1 thừa nhận khi đầu thú D1 khai mua số lô của Đ với giá 22.500 đồng/1 điểm là không chính xác.

Nguyễn Viết H đăng nhập tài khoản zalo “Viết H” nhắn tin vào tài khoản “Có Trí Thì Lên” của Đ mua 200 điểm lô với giá 23.000 đồng/1 điểm. Tổng số tiền Hậu mua số lô với Đ là 4.600.000 đồng.

Nguyễn Quang P sử dụng điện thoại đen trắng (Phố không nhớ hãng sản xuất điện thoại ) gắn sim số 0963.618.919 nhắn tin sms cho Đ mua 02 số đề, mỗi số 25.000 đồng. Tổng số tiền P mua số đề với Đ là 50.000 đồng.

Nguyễn Tài Y đến quán cầm đồ của Đ và đăng nhập tài khoản zalo “Anhyen” nhắn tin vào tài khoản “Có Trí Thì Lên” mua 01 số đề với giá 250.000 đồng. Khi Đ, Y đang mua, bán số đề thì lực lượng công an vào bắt quả tang.

Ngày 17/01/2022, Hà Thị H bán các số lô, đề cho những người mua số tại làng G, xã P, huyện Q. Tổng số tiền số đề H bán được là 2.880.000 đồng, tiền bán số đề “3 càng” là 170.000 đồng, tiền bán lô xiên là 50.000 đồng, số lô H bán được 435 điểm với giá 23.000 đồng/1 điểm lô. Như vậy trong ngày 17/01/2022 H bán các số lô, đề được tổng số (3.050.000 đồng + 50.000 đồng + (435 x 23.000 đồng) = 13.105.000 đồng. Sau khi bán được các số lô, đề H ghi vào 01 tờ giấy A4, sử dụng điện thoại Iphone 8 đăng nhập tài khoản “Tt” gửi toàn bộ thông tin các số lô, đề cùng tiền bán số vào tài khoản “Gl” cho D. Theo thỏa thuận với D thì H phải thanh toán tiền mua, bán số lô, đề với D là (tiền bán số đề 3.050.000 x85%) + (tiền bán số lô 435 điểm x 22.000 đồng/1 điểm) + (tiền bán số lô xiên: 50.000 đồng x 80%) = 12.202.500 đồng.

Ngày 17/01/2022, Nguyễn Thị M bán các số lô, đề cho những người mua số tại làng G, xã P, huyện Q. Tổng số tiền số đề M bán được là 1.895.000 đồng, tiền bán lô xiên là 520.000 đồng và 464 điểm lô với giá 23.000 đồng/1 điểm lô. Như vậy trong ngày 17/01/2022 M bán các số lô, đề được tổng số (1.895.000 đồng + 520.000 đồng + (464x23.000 đồng) = 13.087.000 đồng. Sau khi bán được các số lô, đề M ghi vào 01 tờ giấy học sinh, sử dụng điện thoại SamSung đăng nhập tài khoản “Việt Anh” gửi toàn bộ thông tin các số lô, đề cùng tiền bán số vào tài khoản “Gl” cho D. Theo thỏa thuận với D thì M phải thanh toán tiền mua, bán số lô, đề với D là (tiền bán số đề 1.895.000 đồng x85%) + ( tiền bán số lô 435 điểm x 22.000 đồng/1 điểm) + (tiền bán số lô xiên: 50.000 đồng x 80%) = 12.234.750 đồng. Hoàng Sĩ D2 sau khi mua 10 điểm lô (= 230.000 đồng), Ngân Văn O sau khi mua 10.000 đồng tiền số đề và 10 điểm lô (=240.000 đồng) của M và ở lại chỗ M bán số lô, đề để chờ kết quả nên bị bắt quả tang cùng M về hành vi mua, bán số lô, đề.

* Vật chứng đã thu giữ chưa xử lý :

*Thu khi bắt quả tang tại nơi ở của Hoàng Ninh G khi G đang nhận các số lô, đề:

-01 (Một) máy tính xách tay nhãn hiệu Apple Macbook Pro, đã qua sử dụng.

- 01 (Một) điện thoại di động Iphone 8, màu đen, đã qua sử dụng.

- 01 (Một) điện thoại di động Samsung Note 10, màu đen, đã qua sử dụng.

- 34 (Ba mươi tư) trang tài liệu là hình ảnh chụp hội thoại nhóm có tên “Ad17” trên ứng dụng Zalo đăng nhập bằng tài khoản Zalo “Peter” trên máy tính xách tay Macbook.

*Thu khi bắt quả tang tại nơi Nguyễn Viết Đ mua, bán số lô, đề:

- 01 (Một) bảng cáp ghi số lô, số đề - 01 (Một) điện thoại di động Vivo, màu xanh, IMEI: 862310052578879, trong máy có sim điện thoại số 0376.795.372.

*Thu khi bắt quả tang tại nơi Nguyễn Thị M đang mua, bán số lô, đề:

- 01 (Một) điện thoại di động Samsung, màu đen.

- 01 (Một) điện thoại di động Samsung, màu xanh.

- 01 (Một) bút bi nhãn hiệu Thiên Long - 01 (Một) bảng cáp ghi số lô, số đề - 02 (Hai) cáp nhỏ màu vàng ghi số lô, số đề - Tiền Việt Nam: 2.400.000 đồng *Thu khi bắt quả tang hành tại nơi Hà Thị H mua, bán số lô, đề:

- 01 (Một) điện thoại di động Iphone 8 màu vàng - 01 (một) bút bi màu đen - 01 (Một) bảng cáp ghi số lô, số đề - Tiền Việt Nam: 1.425.000 đồng * Tiền Việt Nam: 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) do Hoàng Ninh G tự nguyện giao nộp một phần tiền để khắc phục hậu quả của hành vi tổ chức đánh bạc ngày 17/01/2022.

* Tiền Việt Nam: 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) do Đỗ Danh D tự nguyện giao nộp một phần tiền để khắc phục hậu quả của hành vi tổ chức đánh bạc ngày 17/01/2022.

Đối với các điện thoại của các bị cáo Đỗ Danh D, Nguyễn Văn D1 và người có nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Viết H, Nguyễn Quang P, Nguyễn Tài Y sử dụng vào việc mua, bán số lô, đề thì D, D1, H, P, Y khai đã bị thất lạc Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an tỉnh B không thu hồi được.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số: 36/CT-VKS-P2 ngày 20/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố các bị cáo Hoàng Ninh G, Đỗ Danh D, Nguyễn Viết Đ về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Hà Thị H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Văn D1 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Cả 6 bị cáo đều thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, khoan hồng giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố. Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Ninh G, Đỗ Danh D, Nguyễn Viết Đ phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; bị cáo Hà Thị H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Văn D1 phạm tội “Đánh bạc”.

* Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Ninh G và bị cáo Đỗ Danh D mỗi bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết Đ từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hà Thị H và bị cáo Nguyễn Thị M mỗi bị cáo từ 25 đến 30 triệu đồng.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D1 từ 20 đến 25 triệu đồng.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo G, D và Đ.

* Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi nhãn hiệu Thiên Long; 01 bút bi màu đen.

- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Apple Macbook Pro đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Note 10 màu đen đã qua sử dụng của Hoàng Ninh G; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, Imei:

862310052578879 kèm 01 sim đã qua sử dụng của Nguyễn Viết Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen bị vỡ màn hình và phồng pin bật nắp sau của Nguyễn Thị M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu vàng đã qua sử dung của Hà Thị H.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 2.400.000 đồng; bị cáo Hà Thị H số tiền 1.425.000 đồng không sử dụng vào việc phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Truy thu số tiền dùng vào việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc của các bị cáo D, Đ, H và M.

Trong phần tự bào chữa, các bị cáo đều không có ý kiến gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát tội danh, chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các tin nhắn Zalo thu được trong điện thoại của bị cáo G, D và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng từ tháng 11/2021 Hoàng Ninh G, Đỗ Danh D lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày để tổ chức đánh bạc bằng hình thức lô, đề. Sau đó G lập 02 tài khoản zalo “Peter”, “JIMY”, D lập tài khoản zalo “Gl” từ 3 tài khoản zalo này G lập nhóm chát zalo Ad17 có 3 thành viên là 3 tài khoản: “Peter”, “JIMY” và “Gl” để mua, bán trái phép số lô, đề. D thỏa thuận với Nguyễn Viết Đ, Hà Thị H, Nguyễn Thị M làm thư ký ghi (bán) các số "lô", số "đề" cho người chơi rồi chuyển cho D bằng ứng dụng zalo. Sau đó D chuyển, tải các số lô đề lên nhóm chát zalo Ad17 cho G. Ngày 17/01/2022, Nguyễn Viết Đ bán các số lô, đề được tổng số 35.840.000 đồng; Hà Thị H bán các số lô, đề được tổng số 13.105.000 đồng; Nguyễn Thị M bán các số lô, đề được tổng số 13.087.000 đồng. Sau đó Đ sử dụng điện thoại Vivo đăng nhập tài khoản zalo “Có Trí Thì Lên”, H sử dụng điện thoại điện thoại Iphone 8 đăng nhập tài khoản zalo “Tt”, M sử dụng điện thoại SamSung đăng nhập tài khoản zalo “Việt Anh” chuyển toàn bộ số lô, đề Đ, H, M đã bán vào tài khoản zalo “Gl” cho Đỗ Danh D. Đỗ Danh D sử dụng điện thoại di động Iphone 7 đăng nhập vào tài khoản zalo “ Gl” nhận tin nhắn đánh số lô, đề của Đ, H, M và và 3 người đàn ông chưa xác định được tên, tuổi địa chỉ ở đâu với tổng số tiền 157.364.250 đồng. D chuyển các số lô, đề vào nhóm chát zalo Ad17 cho Hoàng Ninh G, G sử dụng máy tính laptop Macbook và điện thoại SamSung Note 10 đăng nhập tài khoản zalo “Peter”và “JIMY” xác nhận mua, bán các số lô, đề với D với số tiền 151.521.700 đồng.

Tại làng G, xã P, huyện Q, tỉnh B, Nguyễn Viết Đ, Hà Thị H, Nguyễn Thị M bán các số lô, đề cho nhiều người trong đó Nguyễn Văn D1 mua của Đ 600 điểm lô với giá 23.000 đồng, tổng số tiền D1 mua các số lô với Đ là 13.800.000 đồng. Do đó, HĐXX thấy có đủ căn cứ xét xử các bị cáo Hoàng Ninh G, Đỗ Danh D, Nguyễn Viết Đ phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; bị cáo Hà Thị H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Văn D1 phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Do vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4]. Xét vai trò, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, HĐXX nhận thấy:

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong vụ án này bị cáo G giữ vai trò chính trong vụ án, bị cáo D thực hiện hành vi tích cực, là thư ký cấp trên nhận số lô, số đề do các thư ký cấp dưới chuyển đến, sau đó chuyển lại cho bị cáo G. Do vậy, G và D có vai trò ngang nhau. Đối với các bị cáo Đ, H và M là đồng phạm giúp sức cho bị cáo D tổ chức đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề cho các con bạc, bị cáo D1 tham gia đánh bạc nên có vai trò độc lập. Vì vậy, cần căn cứ vào số tiền phạm tội để quyết định hình phạt tương ứng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đối với từng bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Cả 06 bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó cả 06 bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo D và D1 đã tự đến Cơ quan điều tra đầu thú nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, các bị cáo G, D mỗi bị cáo còn tự nguyện nộp một khoản tiền 20.000.000 đồng để khắc phục hậu quả; tích cực tham gia ủng hộ quỹ phòng chống dịch Covid 19; G được Công an xã Đức Long, huyện Q xác nhận có công trong việc tố giác tội phạm; bị cáo D được Công an xã P, huyện Q xác nhận có công trong việc tố giác tội phạm nên hai bị cáo G, D được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đ cũng tự nguyện nộp một khoản tiền 20.000.000 đồng và có ông ngoại là người có công với cách mạng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

HĐXX xét thấy, các bị cáo G, D và Đ đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần chiếu cố khoan hồng cho các bị cáo cải tạo tại địa phương như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.

Đối với các bị cáo H, M và D1 có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Do vậy, chỉ cần xử phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo G, D và Đ như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[4]. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

* Về xử lý vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi nhãn hiệu Thiên Long; 01 bút bi màu đen. - Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Apple Macbook Pro đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Note 10 màu đen đã qua sử dụng của Hoàng Ninh G; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, Imei: 862310052578879 kèm 01 sim đã qua sử dụng của Nguyễn Viết Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen bị vỡ màn hình và phồng pin bật nắp sau của Nguyễn Thị M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu vàng đã qua sử dung của Hà Thị H.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 2.400.000 đồng; bị cáo Hà Thị H số tiền 1.425.000 đồng không sử dụng vào việc phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tạm giữ số tiền 40.000.000 đồng của hai bị cáo G và D và số tiền 20.200.000 đồng của Đ tự nguyện giao nộp trước khi xét xử để đảm bảo thi hành án.

* Về áp dụng biện pháp tư pháp:

- Đối với số tiền các bị cáo thu được từ việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc trong ngày 17/01/2022 cần truy thu để sung ngân sách Nhà nước. Bị cáo D đã thanh toán với 03 người đàn ông, các bị cáo Đ, H và M chưa thanh toán với D. Bị cáo D2 chưa thanh toán với Đ. Đối với anh Nguyễn Quang P và anh Nguyễn Viết H mặc dù chưa thanh toán với bị cáo Đ nhưng đã nộp đủ số tiền dùng vào việc đánh bạc. Bị cáo H và M đã thanh toán đủ số tiền của những con bạc. Vì vậy các bị cáo D, Đ, H, M và D1 phải nộp lại số tiền dùng vào việc đánh bạc và tổ chức đánh bạc này để sung ngân sách Nhà nước, cụ thể: Bị cáo D phải nộp 95.332.250 đồng; Bị cáo Đ phải nộp 17.390.000 đồng; H nộp: 13.105.000 đồng; M nộp:

13.087.000 đồng và D1 nộp: 13.800.000 đồng. [5]. Những vấn đề khác:

Trong vụ án này Nguyễn Viết H, Nguyễn Quang P, Nguyễn Tài Y, Ngân Văn O, Hoàng Sĩ D2 có hành vi mua số lô, số đề trái phép tuy nhiên số tiền H, P, Y, O, D2 sử dụng mua số lô, đề dưới 5 triệu đồng; H ,P, Y, O, D2 chưa có tiền án, tiền sự về các tội Đánh bạc, Gá bạc hoặc tội Tổ chức đánh bạc; vụ án phát hiện, bắt quả tang trước giờ mở thưởng xổ số Miền Bắc ngày 17/01/2022 vì vậy chưa đủ căn cứ buộc H ,P, Y, O, D2 chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc. Cơ quan Công an tỉnh Bắc Ninh đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với P, D2, O, Y, H.

Đối với 3 người đàn ông giao cáp đề cho D tại cổng làng G, xã P, D khai là khách vào quán cà phê biết D mua, bán số lô, đề nên 3 người này cũng bảo D nhận cáp đề của họ. D không hỏi nên không biết cụ thể tên tuổi 3 người này ở đâu và chỉ đồng ý nhận cáp đề, thanh toán tiền với 3 người này ở cổng làng G cũng như việc mua, bán số lô, đề trước ngày 17/01/2022 các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã xóa bỏ các dữ liệu vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC02) Công an tỉnh B chưa có cơ sở xác minh làm rõ. khi nào làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Hoàng Ninh G, Đỗ Danh D, Nguyễn Viết Đ phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; các bị cáo Hà Thị H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Văn D1 phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Ninh G 16 (Mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 32 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Đỗ Danh D 16 (Mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 32 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết Đ 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (Hai mươi tư) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Ninh G cho UBND phường Tiền An, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Đỗ Danh D và Nguyễn Viết Đ cho UBND xã P, huyện Q, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 (Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo D1); Điều 58; Điều 35 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hà Thị H 25 triệu đồng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 25 triệu đồng. Xử phạt Nguyễn Văn D1 20 triệu đồng.

2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

2.1. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bút bi nhãn hiệu Thiên Long; 01 bút bi màu đen.

- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Apple Macbook Pro đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu đen đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Note 10 màu đen đã qua sử dụng của Hoàng Ninh G; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh, Imei: 862310052578879 kèm 01 sim đã qua sử dụng của Nguyễn Viết Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen bị vỡ màn hình và phồng pin bật nắp sau của Nguyễn Thị M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu vàng đã qua sử dung của Hà Thị H.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị M 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 2.400.000 đồng; bị cáo Hà Thị H số tiền 1.425.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 69/2022 ngày 25/5/2022 giữa PC02- Công an tỉnh B và Cục thi hành án dân sự tỉnh B).

2.2. Truy thu số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc và tổ chức đánh bạc để sung ngân sách Nhà nước gồm: Bị cáo D phải nộp 95.332.250 đồng; Đ phải nộp 17.390.000 đồng; H nộp: 13.105.000 đồng; M nộp: 13.087.000 đồng và D1 nộp: 13.800.000 đồng.

2.3. Tạm giữ số tiền các bị cáo đã tự nguyện nộp trước khi xét xử để đảm bảo thi hành án. Cụ thể: Bị cáo G, D mỗi bị cáo nộp 20.000.000 đồng đã được chuyển vào tài khoản 3949.0.1054440.00000 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B tại Kho bạc nhà nước Bắc Ninh theo giấy nộp tiền ngày 25/4/2022 và bị cáo Đ nộp 20.200.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000479 ngày 12/7/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo G, D, Đ, H, M và D1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1391
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc số 61/2022/HS-ST

Số hiệu:61/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về