Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 905/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 905/2022/HSPT NGÀY 26/12/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số 622/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Phùng Văn C cùng đồng phạm phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phùng Văn C (Tên gọi khác: C N), sinh 1969; nơi cư trú: Thôn G, xã Lạc Đ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 2/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phùng Văn N1 và bà Nguyễn Thị G1; vợ là Nguyễn Thị Tuyết L và có 02 con, con lớn sinh năm 1995 con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Có 2 bản án, nhưng đã được xóa án.

Bị can bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2020 đến ngày 22/02/2021 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Nguyễn Thị X, sinh năm 1970; nơi cư trú: Thôn Hồng T, xã Lạc H, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn N2 (Đã chết) và bà Đỗ Thị D; chồng là Phạm Văn N3 và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2020 đến ngày 22/02/2021 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh; có mặt.

3. Phạm Văn N3 (tên gọi khác: Phạm Văn N4), sinh năm 1969; nơi cư trú: Thôn Hồng T, xã Lạc H, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phạm Văn M (Là Liệt sỹ và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba) và bà Hồ Thị H1; có vợ là Nguyễn Thị X và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

4. Lê Thị X1, sinh năm 1975; nơi ĐKHKTT: Tập thể Mây T1, xã Kiêu K, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Thôn Trung D1, xã Kiêu K, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Kế toán; con ông Lê N3 K1 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị V; chồng là Ngô Giang N5 và có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2020 đến ngày 22/02/2021 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh; có mặt.

5. Phạm Thị M1, sinh năm 1974; nơi ĐKHKTT: Tập thể Mây T1, xã Kiêu K, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Thôn Chí T2, xã Tân Q, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Phạm Văn K2 (Ông K2 được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng 3 và bà Nguyễn Thị H2; có chồng là Nguyễn Thành Đ1 và có 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2020 đến ngày 22/02/2021 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh; có mặt.

6. Chu Thanh T3, sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT: Thôn Cộng H3, xã Thái H4, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Thôn N3 Đ2, xã Tân Q, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Chu Văn L1 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị N6; có vợ là Nguyễn Thị G2 và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Chưa có; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Phùng Văn C và bị cáo Phạm Văn N3: Luật sư Phan T4, thuộc Văn phòng luật sư ATV - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Hành vi phạm tội của Nguyễn Thị X và Phạm Văn N3:

Từ khoảng đầu năm 2018, biết Phùng Văn C làm chủ lô, đề nên Phạm Văn N3 (chồng của Nguyễn Thị X) đã đến gặp C để xin làm thư ký ghi bán số lô, số đề. C đồng ý và thống nhất với N3 là C thu của N3 83% tổng số tiền bán số đề, số ba càng và số lô xiên; 21.800 đồng/1điểm lô. Sau đó C thuê N3 giúp C hàng ngày tính toán số tiền thắng thua các bảng lô đề của một số thư ký khác của C, C sẽ trả công cho N3 02% tổng số tiền bán số đề, ba càng và lô xiên;

200 đồng/1điểm lô. N3 làm cho C được một thời gian thì bàn bạc, thống nhất với X là: Hàng ngày ngoài việc trực tiếp ghi bán số lô, số đề thì X tổng hợp các bảng lô, đề của các thư ký rồi chuyển cho C để hưởng lợi và cùng N3 giúp C tính toán thắng thua các bảng lô đề mà các thư ký khác của C gửi đến. Hàng ngày X, N3 bán các số lô, số đề và nhận các bảng tổng hợp số lô, số đề của các thư ký qua tin nhắn SMS và Zalo từ 03 chiếc điện thoại gồm: 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đen có số thuê bao 0812311968; 01 điện thoại Samsung Galaxy A8 không lắp sim (chỉ dùng zalo) và chiếc Samsung J3 có số thuê bao 0974351468, sau đó tổng hợp lại gửi cho C thông qua tin nhắn Zalo từ tài khoản của N3 là “Xuan Ngọt” (được đăng ký bằng số điện thoại 0974351468) đến tài khoản Zalo của C là “Hung Thắng” (được đăng ký bằng số điện thoại 0337562318). Sau khi nhận được các bảng số lô, số đề của các thư ký, N3 đăng nhập zalo trên máy tính xách tay rồi dùng máy in, in ra tờ giấy A4 cho X tổng hợp, sau đó N3 chụp lại rồi gửi qua zalo cho C.

Ngày 07/7/2020 Phạm Văn N3 và Nguyễn Thị X đã bán số lô, số đề cho:

Hồ Quang V1 với số tiền là 7.658.000 đồng, V1 trúng lô, đề số tiền là 6.880.000 đồng; Chu Thị X2 với số tiền là 13.605.000 đồng; X2 trúng lô, đề số tiền là 6.480.000 đồng; Ngô Minh T5 với số tiền là 2.730.000 đồng, T5 trúng lô, đề số tiền là 2.800.000 đồng và một số người (chưa rõ lý lịch) được tổng số tiền là 4.788.500 đồng; Và nhận các bảng lô, đề của Phạm Văn Q1 với số tiền là 13.170.000 đồng, số tiền người chơi trúng lô, đề là 4.960.000 đồng; Hồ Văn T6 với số tiền là 3.427.500 đồng, số tiền người chơi trúng lô, đề là 4.480.000 đồng. Tổng số tiền Nguyễn Thị X và Phạm Văn N3 sử dụng để đánh bạc dưới hình thức ghi bán số lô, số đề và tổng hợp số lô đề là 70.979.000 đồng. Ngày 07/7/2020 Nguyễn Thị X và Phạm Văn N3 đã giúp C tính toán thắng thua các bảng lô đề của Phạm Thị M1 có số tiền 32.300.000 đồng; Đinh Thị Lệ T7 có số tiền 10.006.000 đồng; Lê Thị X1 có số tiền 130.045.000 đồng; Của người tên N7 có số tiền 20.600.000 đồng; Của người tên Hoa V2 có số tiền 20.403.000 đồng; Của người tên H5 có số tiền 12.870.000 đồng; Của người tên X3 có số tiền 27.740.000 đồng.

Ngày 07/7/2020 Phạm Văn N3 và Nguyễn Thị X đã bán số lô, số đề và tính toán tiền thắng thua của các bảng lô đề cho C được tổng số tiền là 324.943.000 đồng. Số tiền thực tế X, N3 chuyển cho C là 309.127.050 đồng (đã trừ tiền hưởng lợi của các thư ký và thanh toán tiền trúng số lô, số đề), giúp C thu lợi số tiền là 69.767.050 đồng. X, N3 được hưởng lợi số tiền là 2.551.700 đồng.

Ngày 08/7/2020 Nguyễn Thị X đã bán số lô, số đề cho 19 đối tượng (Chưa rõ lý lịch), đến 17 giờ 50 phút cùng ngày khi X đang bán số đề cho Nguyễn Thị H6, sinh năm 1976, ở Thôn Hồng T, xã Lạc H, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên với số tiền là 20.000 đồng thì bị Cục Cảnh sát hình sự - Bộ công an phối hợp với Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên và Công an huyện Văn Lâm bắt quả tang. Thu giữ của X: 01 tờ giấy ghi ký tự số (bảng ghi lô đề) ký hiệu A1, 01 quyển sổ bên trong có 19 tờ được ghi các số và chữ; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A7, 01 điện thoại Iphone, 01 bút bi và số tiền 4.379.000 đồng (là số tiền X đã bán số lô, số đề); Thu giữ của H6 01 điện thoại Nokia màu đen.

Ngày 08/7/2020 Phạm Thị M1 đã bán số lô, số đề được số tiền 25.390.000 đồng; Lê Thị X1 đã bán số lô, số đề được số tiền 37.045.000 đồng. Ngày 08/7/2020 Nguyễn Thị X và Phạm Văn N3 phải chịu trách nhiệm về số tiền trực tiếp ghi lô đề là 4.399.000 đồng và số tiền của Phạm Thị M1 và Lê Thị X1 đã bán cho người chơi nhưng chưa kịp chuyển cho X, N3 để giúp C tính toán thắng thua. Tổng số tiền là 66.834.000 đồng.

Khám xét nơi ở của vợ chồng X, N3 thu giữ: 75 tờ giấy có ghi chữ và số;

01 quyển sổ bên ngoài ghi chữ “giáo án, 1A4, họ tên Minh Quang”, bên trong có một tờ giấy ghi chữ và số (ký hiệu A1); 01 giấy vay tiền, 03 máy Fax nhãn hiệu Panasonic, 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Acer, 01 máy in canon màu trắng, số tiền 126.000.000 đồng và 03 sổ tiết kiệm mang tên Nguyễn Thị X có tổng số tiền 800.000.000 đồng; 01 thẻ nhớ Camera; Phạm Văn N3 giao nộp 03 chiếc điện thoại sử dụng vào việc đánh bạc gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A8 và 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung J3 màu vàng đen.

Kết luận giám định số 37/PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Chữ viết, chữ số được đóng khung bằng mực màu đỏ trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 với chữ viết, chữ số của Nguyễn Thị X trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 là của cùng một người viết ra.

- Đối với các đối tượng Nguyễn Văn G3, Hoàng Văn U và Nguyễn Thị H7: N3 khai, ngày 07/7/2020 G3 và U mua số lô, số đề của N3, còn H7 đã chuyển bảng lô đề cho N3 để N3 giúp C tính toán bảng lô, đề của H7, nhưng G3, U và H7 không thừa nhận hành vi đánh bạc. Kiểm tra điện thoại của N3 có lưu các tin nhắn Zalo giữa N3 với G3 và U nhưng nội dung tin nhắn Zalo chỉ thể hiện việc tính toán âm, dương số tiền mà không thể hiện việc mua bán các số lô, số đề. Đối với tài khoản Zalo có tên là “NoN7e” N3 khai là của H7, H7 đã dùng tài khoản Zalo để chuyển số lô, số đề cho N3, nhưng H7 không thừa nhận việc sử dụng tài khoản zalo. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

- Đối với các đối tượng có tên là X3; H5 và N7, Phạm Văn N3 khai là có nhận và tính toán bảng lô đề của X3 ở Lào Cai cùng với H5 và N7 ở xã Lạc H. Kiểm tra điện thoại của N3 có nội dung tin nhắn Zalo thể hiện việc chuyển các số lô, số đề trong đó tài khoản Zalo có tên “Chu X3” là của X3, tài khoản Zalo có tên “nguyễn H5” là của H5. Hiện nay Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân lý lịch của người có tên là X3, H5 và N7, nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

2. Hành vi phạm tội của Lê Thị X1: Hồi 18 giờ 05 phút ngày 08/7/2020 Cơ quan điều tra đã khám xét tại nơi bán hàng của X1 ở Thôn Chí T2, xã Tân Q, huyện Văn Lâm, thu giữ 01 điện thoại LG V40 màu đen, 01 điện thoại Samsung Galaxy A7 màu đen, 01 thẻ nhớ samsung 16 Gb, 01 máy tính casio màu đen bạc, 04 quyển sổ: quyển 01 có 15 tờ, quyền 02 có 39 tờ, quyển 03 có 116 tờ và quyển 04 có 137 tờ, 06 tờ giấy có ghi chữ và số (ký hiệu A4, A5, A6, A7), 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị X1 và số tiền 2.270.000 đồng. Quá trình điều tra, xác định: Khoảng đầu năm 2019 X1 làm thư ký giúp C bán số lô, số đề để hưởng lợi. Hàng ngày sau khi bán số lô, số đề cho người chơi đánh bạc thì X1 tổng hợp lại thành một bảng rồi chụp ảnh gửi cho C qua tin nhắn Zalo của X1 là “Lê X1” (đăng ký số điện thoại 0349881899) đến tài khoản Zalo của C là “Hung Thắng” (đăng ký số điện thoại 0337562318) với mức giá là 85% tổng số tiền bán số đề; 22.000đ/1điểm lô, khi C nhận và trả lời “ok” thì X1 sẽ tiếp tục chuyển bảng lô đề từ tài khoản Zalo của X1 đến tài khoản Zalo của N3 là “Xuan Ngot” để vợ chồng X - N3 giúp C tính toán thắng thua, cụ thể:

- Ngày 07/7/2020 X1 đã bán số lô, số đề cho Nguyễn Thị B, sinh năm 1982, ở đội 3, Kiêu K - Gia Lâm - Hà Nội với số tiền là 490.000 đồng; bán cho Trần Thị H8, sinh năm 1974, ở Hồng K3 - Sóc Sơn - Hà Nội với số tiền là 250.000 đồng; bán cho Nguyễn Thanh L2, sinh năm 1981 ở Gia K4 - Gia Lộc - Hải Dương với số tiền là 3.300.000 đồng; bán cho Hoàng Đình T8, sinh 1977, ở Tân Q - Văn Lâm - Hưng Yên với số tiền là 1.550.000 đồng; bán cho Nguyễn Quang H9, sinh năm 1985 ở Quán K5 – Dương Quang – Gia Lâm - Hà Nội với số tiền là 445.000 đồng; bán cho Chu Thanh T3 với số tiền là 57.950.000 đồng, T3 trúng số lô 44.000.000 đồng. X1 còn bán cho một số người (chưa rõ lý lich) với số tiền là 8.460.000 đồng. X1 đã chuyển bảng lô, đề có giá trị 72.445.000 đồng cho Phạm Văn C và vợ chồng X, N3. Người chơi trúng lô, đề số tiền là 57.600.000 đồng. Tổng số tiền X1 sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc là 130.045.000 đồng, số tiền X1 thu lợi là 3.651.500 đồng.

- Ngày 08/7/2020 X1 tiếp tục bán số lô, số đề cho Nguyễn Thị B số tiền là 1.660.000 đồng; Chu Thanh T3 số tiền là 27.125.000 đồng; Lê Hồng M2, sinh năm 1982, ở khu Tập thể Mây T1 - Kiêu K - Gia Lâm - Hà Nội với số tiền là 250.000 đồng và một số người (chưa rõ lý lịch) với số tiền là 8.010.000 đồng. Tổng bảng lô đề có giá trị là 37.045.000 đồng. Bảng lô đề này X1 chưa kịp chuyển cho C và vợ chồng X, N3 thì bị khám xét và thu giữ.

Kết luận giám định số 37/PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định ký hiệu A4, A5, A6, A7 với chữ viết, chữ số của Lê Thị X1 trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M3 là của cùng một người viết ra.

Tại Cơ quan điều tra Lê Thị X1 đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời nhận tội của bị can phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đối với các đối tượng Hoàng Đình T8, Nguyễn Thị B, Lê Hồng M2, Trần Thị H8, Nguyễn Quang H9, đã có hành vi đánh bạc với số tiền dưới 5.000.000 đồng, nhưng đều chưa có tiền án, tiền sự. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an tỉnh Hưng Yên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 3. Hành vi phạm tội của Chu Thanh T3: Ngày 07/7/2020, T3 đã sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen và tài khoản Zalo có tên “Tunggam” được đăng ký bằng số điện thoại 0358205555 nhắn tin mua số lô, số đề của Lê Thị X1 với số tiền là 57.950.000 đồng, T3 trúng lô, đề số tiền là 44.000.000 đồng (đối trừ thì T3 bị thua số tiền là 13.950.000 đồng). Tổng số tiền T3 sử dụng để đánh bạc với X1 ngày 07/7/2020 là 101.950.000 đồng. Ngày 08/7/2020 T3 tiếp tục mua số lô, số đề của X1 với số tiền là 27.125.000 đồng và T3 tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã sử dụng vào việc đánh bạc.

4. Hành vi phạm tội của Phạm Thị M1: Hồi 18 giờ 40 phút ngày 08/7/2020 Cơ quan điều tra đã khám xét nơi ở của M1 thu giữ: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO; 01 quyển sổ bên trong có 33 trang có chữ và số; 01 quyển sổ bên trong có 85 trang ghi kết quả xổ số miền bắc; 01 quyển sổ bên trong có 129 trang có chữ ghi kết quả xổ số miền bắc; 01 quyển sổ, bên trong có 08 trang có chữ viết ghi kết quả xổ số; 04 tờ giấy được có ghi chữ, số được đánh số từ tờ số 01 đến tờ số 04; 03 tờ bìa của vỏ cây thuốc lá Thăng Long và vinataba, mặt trong có ghi các dãy số được đánh số từ 01 đến 03 (ký hiệu A2, A3) và 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị M1. Quá trình điều tra, xác định: Khoảng cuối năm 2018 M1 làm thư ký giúp C bán số lô, số đề để hưởng lợi. Hàng ngày sau khi bán số lô, số đề cho người chơi đánh bạc thì M1 tổng hợp lại thành một bảng chung sau đó dùng điện thoại nhãn hiệu OPPO chụp ảnh gửi cho C qua tin nhắn Zalo từ tài khoản của M1 là “Phạm Thị M1” (đăng ký số điện thoại 0357889159) đến tài khoản Zalo của C là “Hung Thắng” với mức giá là 85% tổng số tiền bán số đề; 22.000đ/1điểm lô, khi C nhận và trả lời “ok” thì M1 sẽ tiếp tục chuyển bảng lô đề từ tài khoản Zalo của M1 đến tài khoản Zalo của N3 là “Xuan Ngot” để vợ chồng X - N3 giúp C tính toán thắng thua, cụ thể:

- Ngày 07/7/2020 M1 đã bán số lô, số đề cho Đặng Hữu G4, sinh năm 1988 ở thôn Kim H10 - Lệ C1 - Gia Lâm - Hà Nội với số tiền là 100.000 đồng;

Lê Quốc P với số tiền là 5.300.000 đồng và một số người khác (chưa rõ lý lịch) với số tiền là 20.100.000 đồng. M1 đã tổng hợp và chuyển bảng lô, đề có giá trị 25.500.000 đồng cho C và vợ chồng X N3. Người chơi trúng lô, đề số tiền là 6.800.000 đồng. Tổng số tiền M1 sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc là ngày 07/7/2020 là 32.300.000 đồng, số tiền M1 thu lợi là 2.388.500 đồng.

- Ngày 08/7/2020 M1 đã bán số lô, số đề cho Triệu Văn L3, sinh năm 1986, ở xã Đông D2, huyện Bình L4, tỉnh Hà Nam với số tiền là 110.000 đồng; Đinh Xuân B1, sinh năm 1994, ở xã Nà M3, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La với số tiền là 200.000 đồng; Nguyễn Cao P1, sinh năm 1985, ở Khu 2 - Xuân L5, huyện Thanh T9, tỉnh Phú Thọ với số tiền là 700.000 đồng; Nguyễn Thanh L2, sinh năm 1981, ở xã Gia K4, huyện Gia L6, tỉnh Hải Dương với số tiền là 4.860.000 đồng; Trần Văn H11, sinh năm 1988, ở khu 6 - Đào T10, huyện Trấn Y, tỉnh Yên Bái với số tiền là 500.000 đồng; Nguyễn Viết H12, sinh năm 1966, ở phường Tương M4, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội với số tiền là 550.000 đồng; Đặng Văn S, sinh năm 1987, ở xã Quang M5, huyện Kiến X4, tỉnh Thái Bình với số tiền là 230.000 đồng và một số người khác (chưa rõ lý lịch) với số tiền là 18.240.000 đồng. Tổng bảng lô đề có số tiền là 25.390.000 đồng. Bảng lô, đề này, M1 chưa kịp chuyển cho C và vợ chồng X, N3 thì bị khám xét và thu giữ.

Kết luận giám định số 37/PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Chữ viết, chữ số trên tài liệu cần giám định ký hiệu A2, A3 với chữ viết, chữ số của Phạm Thị M1 trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M2 là của cùng một người viết ra.

Đối với Đặng Hữu G4, Triệu Văn L3, Đinh Xuân B1, Nguyễn Cao P1, Nguyễn Thanh L2, Trần Văn H11, Nguyễn Viết H12, Đặng Văn S đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua số lô, số đề với số tiền dưới 5.000.000 đồng, về nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an tỉnh Hưng Yên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

5. Hành vi phạm tội của Phùng Văn C: Hồi 18 giờ 10 phút ngày 08/7/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của C ở Thôn G, xã Lạc Đ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên thu giữ: 03 chiếc điện thoại Iphone, 01 chiếc Nokia 8800; 48 tờ tài liệu (ký hiệu A1 đến A32); 02 đầu thu camera, 01 máy tính hiệu CASIO; 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 358470 và CU 402710 mang tên Phùng Ngọc H13; 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 836404 và BE 836405 mang tên Phùng Văn C; 09 tờ tài liệu được đánh số từ 01-09; số tiền 2.837.525.000 đồng; chị Phùng Thị O (là chị gái của C) giao nộp 01 chiếc điện thoại MASSTER. Cơ quan điều tra đã lập biên bản thu giữ: 03 Chiếc xe ô tô gồm một xe nhãn hiệu Mecedes E300, biển số 30G - 39522; một xe Kia Picanto, biển số 29A - 66260 và một xe Toyota Fortuner biển số 31F - 5346. Ngày 15/7/2020, C đến Cơ quan điều tra đầu thú (Bút lục 231). Quá trình điều tra, xác định: C là chủ các bảng lô đề do các thư ký chuyển đến, C dùng điện thoại di động có số thuê bao 0976431836 và số 0337562318 đăng ký tài khoản Zalo có tên “Hung Thắng” và “Kiepdoden”, để nhận các bảng lô đề của Chu Văn T11, của vợ chồng Nguyễn Thị X và Phạm Văn N3, của Phạm Thị M1; Đinh Thị Lệ T7; Lê Thị X1 và của những người có tên là N7, Hoa V2, H5, X3; Hình thức đánh bạc dưới hình thức chơi lô đề như sau: Căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày; số trúng đề là số trùng với hai số cuối của giải đặc biệt, người chơi được số tiền gấp 70 lần; số trúng lô là số trùng với hai số cuối của 27 giải thưởng, người chơi được số tiền bằng 80.000 đồng/01 điểm lô. Đối với lô xiên hai hoặc xiên ba nếu người chơi trúng thì thư ký phải thanh toán trả người chơi số tiền gấp 10 lần số tiền đã mua số lô xiên 2 hoặc gấp 40 lần số tiền đã mua số lô xiên 3. C thỏa thuận với các thư ký lô, đề như sau: Đối với các số lô, C thu của các thư ký với giá là 21.800đ/1điểm lô, Đối với các số đề, số lô xiên, C thu của các thư ký giá 83% của tổng số tiền đã bán (riêng đối với bảng lô đề của Chu Văn T11 chuyển thì C thu 85% của tổng số tiền đã bán), cụ thể:

Ngày 07/7/2020 C nhận bảng lô đề của T11 có giá trị là 39.060.000 đồng, C thu lợi số tiền là 11.611.200 đồng; C nhận bảng lô đề của X, N3 và của các thư ký do C thuê X, N3 tính toán thắng thua có giá trị là 324.943.000 đồng, C thu lợi số tiền là 69.767.050 đồng. Tổng số tiền C tổ chức đánh bạc ngày 07/7/2020 là 364.003.000 đồng, C thu lợi tổng số tiền là 81.378.250 đồng.

Ngày 08/7/2020 Phùng Văn C phải chịu trách nhiệm với tổng số tiền do Phạm Văn N3, Nguyễn Thị X, Phạm Thị M1 và Lê Thị X1 đã bán số lô, số đề có giá trị là 66.834.000 đồng, cụ thể: Vợ chồng Phạm Văn N3, Nguyễn Thị X đã bán được số tiền là 4.399.000 đồng; Phạm Thị M1 đã bán được số tiền là 25.390.000 đồng; Lê Thị X1 đã bán được số tiền là 37.045.000 đồng.

Kết luận giám định số 4790/C09-P5 ngày 16/11/2020, của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Chữ viết trên mẫu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A32 (trừ các chữ trong khung màu đỏ) so với chữ viết của Phùng Văn C trên mẫu so sánh ký hiệu M1 do cùng một người viết ra.

C khai ngày 07/7/2020 C đã bán các số lô, số đề cho một người tên H14 ở xã Việt H15, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội với tổng số tiền là 9.700.000 đồng, H14 trúng được số tiền là 72.000.000 đồng, C để bảng tổng hợp số lô, số đề đã bán cho H14 ở gầm bàn nhà thờ họ Phùng thuộc xóm M6, thôn Đại Đ3, xã Đại Đ3, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Cơ quan điều tra đã thu giữ. Xác minh tại địa bàn xã Việt H15, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên không xác định được nhân thân của người có tên là H14, vì vậy không đủ căn cứ để xác định C đã bán số lô, số đề cho H14. C khai sau khi nhận bảng lô đề của Chu Văn T11 và bảng tổng hợp lô đề do vợ chồng Nguyễn Thị X và Phạm Văn N3 chuyển đến thì C chuyển các bảng số lô, số đề cho một người có tên là T12 ở Hà Nội nhưng C không biết tên tuổi, địa chỉ; Ngoài lời khai của C không có căn cứ khác để chứng minh. Vì vậy C phải chịu trách nhiệm về tổng số tiền đã tổ chức đánh bạc và tổng số tiền thu lợi bất chính.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên quyết định:

[1]. Tuyên bố: Các bị cáo Phùng Văn C, Nguyễn Thị X, Phạm Văn N3; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; Chu Thanh T3 phạm tội “Đánh bạc”.

[2]. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 322; Điều 17; Điều 38; Điều 58 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo: Phùng Văn C, Phạm Văn N3, Nguyễn Thị X. Áp dụng thêm: điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với C, X; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với N3; khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự đối với C, N3;

Điều 54 Bộ luật hình sự đối với N3 và X.

Xử phạt Phùng Văn C 05 năm tù, tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2020 đến 22/02/2021)

Xử phạt Nguyễn Thị X 03 năm 06 tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2020 đến 22/02/2021)

Xử phạt Phạm Văn N3 03 năm tù, tính từ ngày bắt thi hành án.

- Áp dụng điểm c khoản 1 khoản 3 Điều 322; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Phạm Thị M1 và Lê Thị X1.

Xử phạt Phạm Thị M1 01 năm 03 tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2020 đến 22/02/2021) Xử phạt Lê Thị X1 01 năm 06 tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2020 đến 22/02/2021)

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điều 17; Điều 38; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Chu Thanh T3.

Xử phạt Chu Thanh T3 03 năm 03 tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Xử phạt Phùng Văn C 50.000.000đ; Phạm Văn N3 30.000.000đ; Phạm Thị M1, Lê Thị X1, Chu Thanh T3 mỗi bị cáo 20.000.000đ sung vào ngân sách nhà nước. Miễn hình phạt bổ sung đối với Nguyễn Thị X.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 24/5/2022, bị cáo Phạm Thị M1 có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngày 25/5/2022, các bị cáo Nguyễn Thị X, Phạm Văn N3, Lê Thị X1, Chu Thanh T3 có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 26/5/2022, bị cáo Phùng Văn C có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo Phùng Văn C, Nguyễn Thị X, Phạm Văn N3; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 giữ nguyên kháng cáo; khai nhận hành vi phạm tội đúng như quy kết của Tòa án cấp sơ thẩm; các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận nội dung kháng cáo của các bị cáo.

Đại diện Viên kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm:

Căn cứ Điều 331, 332, 333 BLTTHS 2015, kháng cáo của các bị cáo C, X, M1, X1, T3, N3 trong thời hạn quy định nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Đối với các bị cáo Nguyễn Thị X, Phạm Thị M1, Lê Thị X1, Chu Thanh T3, tại phiên tòa, các bị cáo tự nguyện rút kháng cáo nên đề nghị HĐXXPT căn cứ quy định của Điều 348 BLTTHS, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo nêu trên.

Xét kháng cáo của các bị cáo, đối với bị cáo C là chủ mưu cầm đầu vụ án tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học bị cáo lại tiếp tục vi phạm, tuy nhiên bị cáo đã nộp thêm 112.300.000 đồng tiền phạt bổ sung, tiền thu lời bất chính, án phí HSST nên có căn cứ áp dụng tiếp quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với bị cáo Phạm Văn N3 cũng phạm tội trong thời gian dài. Không chỉ bản thân mình phạm tội, N3 còn lôi kéo vợ là Nguyễn Thị X cùng phạm tội. N3 là chủ động xin C làm thư ký đề, trực tiếp giao dịch, thanh toán tiền đánh bạc với C nên vai trò cao hơn hẳn X. Sau phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ TNHS nào mới nên cần giữ nguyên mức hình phạt 3 năm tù của án sơ thẩm. Mặt khác, bị cáo phạm tội trong thời gian rất dài và thuộc trường hợp nhiều lần nên không có căn cứ cho rằng bị cáo có thể tự cải tạo được dù bị cáo là con liệt sỹ. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này đang diễn biến rất phức tạp trên cả nước và tại tỉnh Hưng Yên nên cũng không có căn cứ cho bị cáo hưởng án treo. Đối với bị cáo Nguyễn Thị X: bị cáo X là vợ bị cáo Phạm Văn N3. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội theo chỉ đạo của chồng nên vai trò thấp hơn N3. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ “có bố chồng là liệt sỹ” là bất lợi cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo mức án 3 năm 6 tháng tù, cao hơn mức án của N3 là bất lợi, chưa phù hợp. Mặc dù bị cáo rút kháng cáo nhưng theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 357 BLTTHS thì cấp phúc thẩm vẫn có quyền xem xét áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, Tòa án nhân dân cấp cao Tại Hà Nội. Căn cứ điểm a, b khoản 1, Điều 355; 356; 357 BLTTHS.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phùng Văn C, áp dụng tiếp khoản 2 Điều 51 BLHS, giảm cho bị cáo 6 – 9 tháng tù; giảm cho bị cáo Nguyễn Thị X 5 – 6 tháng tù;

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 19.075.250 đồng thu lời bất chính bị cáo C đã nộp tại cấp sơ thẩm;

Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, nghe tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Đơn kháng cáo của các bị cáo Phùng Văn C, Nguyễn Thị X, Phạm Văn N3; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 đảm bảo về mặt hình thức, trong hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm; tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Thị X; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội có quan điểm đề nghị áp dụng Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm theo là phù hợp với qui định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phùng Văn C có đơn xin xét xử vắng mặt, luật sư có gửi bản bào chữa cho các bị cáo Phùng Văn C, bị cáo Phạm Văn N3 và luật sư có đơn xin xét xử vắng mặt, các bị cáo đồng ý về việc vắng mặt của luật sư và đề nghị Tòa án được tiếp tục xét xử phúc thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội có quan điểm đề nghị xét xử phúc thẩm vắng mặt bị cáo, vắng mặt luật sư; là phù hợp với qui định của pháp luật; nhưng không làm xấu đi tình trạng của các bị cáo Phùng Văn C, Phạm Văn N3.

[1]. Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Tại giai đoạn sơ thẩm, các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định và đến cấp phúc thẩm, đã thực hiện đúng các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại lời khai của các bị cáo Phùng Văn C, Nguyễn Thị X, Phạm Văn N3; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, các bị cáo đều khai nhận thành khẩn hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Với động cơ mục đích một cách dễ ràng hưởng lợi bất chính. Trong các ngày 07/7 và 08/7 năm 2020, tại địa bàn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên: Phùng Văn C, Nguyễn Thị X, Phạm Văn N3, Phạm Thị M1, Lê Thị X1, Chu Thanh T3 và các bị cáo khác trong vụ án đã Tổ chức đánh bạc và Đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề. Cụ thể:

- Ngày 07/7/2020, Phùng Văn C đã tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 364.003.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 81.378.250 đồng. Ngày 08/7/2020 đã Tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 66.834.000 đồng (chưa thu lợi).

- Ngày 07/7/2020, Phạm Văn N3 và Nguyễn Thị X đã đồng phạm với Phùng Văn C Tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 324.943.000 đồng và giúp C thu lợi số tiền là 69.767.050 đồng; Phạm Văn N3, Nguyễn Thị X được hưởng lợi số tiền là 2.551.700 đồng. Ngày 08/7/2020 đã đồng phạm với Phùng Văn C Tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 66.834.000 đồng (chưa thu lợi).

Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phùng Văn C, Phạm Văn N3 về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo các bị cáo Phùng Văn C, Phạm Văn N3 là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi ấy đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng; thông qua việc chơi cờ bạc để sát phạt lẫn nhau; gây ảnh hưởng đến cuộc sống, hạnh phúc của chính bản thân, gia đình các bị cáo, gây mất an ninh, trật tự xã hội mà còn gây dư luận rất xấu trong quần chúng nhân dân tại địa phương. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo Phùng Văn C, Phạm Văn N3 cần phải xét xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và để phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Phùng Văn C, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Bị cáo Phùng Văn C thừa nhận về hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết là đúng người đúng tội; ngoài hình phạt tù bị cáo Phùng Văn C còn bị áp dụng hình phạt bổ xung là 50.000.000 đồng và bị truy thu là: 62.300.000 đồng 3.1. Các tình tiết giảm nhẹ tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng:

Sau khi phạm tội, bị cáo Phùng Văn C đã ra đầu thú; trong quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Quá trình tại ngoại, bị cáo đã có tinh thần tố giác tội phạm, cung cấp thông tin giúp Phòng an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao phát hiện, bắt giữ nhóm đối tượng đánh bạc; vợ bị cáo có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bị cáo đã nộp một phần tiền thu lời bất chính nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

3.2. Các tình tiết tăng nặng tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng:

Bị cáo Phùng Văn C phải chịu tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Tuy bị cáo Phùng Văn C đã có hai bản án nhưng đã được pháp luật xóa án tích.

3.3. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo nộp bổ sung các tài liệu mới (có đối chiếu bản gốc) cụ thể như sau:

(1). Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Hưng Yên có Công văn số 1049/CV- CSHS ngày 11/11/2021 gửi TAND tỉnh Hưng Yên, VKS nhân dân tỉnh Hưng Yên, với nội dung xác nhận vào các ngày 04 và 05/11/2021 Phùng Văn C đã vận động và đưa các đối tượng Lê Văn K6, Đỗ Quang T13 đến Cơ quan Công an đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội “Giết người” của các đối tượng trên và đồng phạm...nên trao đổi để quý cơ quan biết và coi đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt (lập công chuộc tội) đối với Phùng Văn C.

(2). Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hưng Yên xác nhận ngày 11/5/2021 có tiếp nhận đơn của Phùng Văn C tố giác đối tượng Lương Công S1, sinh năm 1991; chỗ ở: Thôn Như Q2, thị trấn Như Q2, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên có dấu hiệu mua bán ma túy.....

(3). Bị cáo Phùng Văn C còn xuất trình tài liệu (có xác nhận của chính quyền địa phương) thể hiện bị cáo đã làm các việc tốt như: 02 lần đưa người đi cấp cứu trong trường hợp khẩn cấp khi bị tai nạn giao thông; lần 1: ngày 02/6/2021; lần 2: ngày 19/ 7/2021 Đưa người đi cấp cứu khi bị tai biến;

(4). Ngày 26/ 8/ 2012 Phùng Văn C có giấy chứng nhận hiến máu tình nguyện, của Ban chỉ đạo hiến máu tình nguyện tỉnh Hưng Yên.

(5). Tại đơn xin xác nhận, ngày 03/ 8/ 2021 của Phùng Văn C, có xác nhận của chủ tịch xã Đại Đ3, huyên Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên như sau: Bị cáo Phùng Văn C là lao động chính trong gia đình, hoàn cảnh kinh tế gia đình rất khó khăn; bị cáo phải chăm sóc vợ bị bệnh lan y sơ gan giai đoạn cuối và phải chăm sóc bố đẻ 82 tuổi, mẹ đẻ 81 tuổi già yếu thường xuyên ốm đau, các con còn nhỏ.

(6). Đơn ngày 16/ 6/2021 của bà Nguyễn Thị L7, sinh 1943, cư trú tại Thôn G, xã Lạc Đ, huyên Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên; cô đơn không nơi nưng tựa, là vợ của Liệt sĩ Nguyễn Văn N, là Chiến sĩ quân đội nhân dân Việt N7, ngày 04 tháng 01 năm 1968 đã huy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Ngày 21 tháng 01 năm 2013 được thủ tướng chính phủ cấp giấy chứng nhận “TỔ QUỐC NGHI CÔNG” bị cáo Phùng Văn C đã cho nhập khẩu bà Nguyễn Thị L7 và chăm sóc bà già yếu (vợ của liệt sĩ Nguyễn Văn N), đơn có xác nhận của chủ tịch UBND xã Lạc Đ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, xác nhận và “đề nghị quý cơ quan giảm hình phạt cho bị cáo Phùng Văn C”.

(7). Ngoài ra, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo Phùng Văn C đã tích cực nộp toàn bộ tiền phạt bổ sung là 50 triệu, 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm trước khi xét xử sơ nộp tiền thu lợi bất chính 19.075.250 đồng.

Trên đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, được bổ xung tại cấp phúc thẩm; thể hiện bị cáo không những ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, mà còn tích cực giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác; trực tiếp vận động người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng ra đầu thú (tình tiết này được coi là lập công chuộc tội) theo điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS; ngoài ra bị cáo còn có những hành động làm những việc nhân đạo như: bị cáo còn có hành động: 02 lần đưa người đi cấp cứu trong trường hợp khẩn cấp khi gặp người bị tai nạn giao thông; Đưa người đi cấp cứu khi bị tai biến và đã tình nguyện hiến máu nhân đạo vì cộng đồng. Đây là những hoạt động của bị cáo Phùng Văn C thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, tính hướng thiện vì tính mạng, sức khỏe người khác vì cộng đồng xã hội, cũng như thể hiện thái độ, ý thức, chấp hành pháp luật của bị cáo và sự ăn năn hối cải của bị cáo Phùng Văn C.

Xét thấy, tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo Phùng Văn C nộp bổ xung nhiều tình tiết giảm nhẹ mới, được qui định tại điểm t, u khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Như vậy bị cáo Phùng Văn C đủ điều kiện được áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm của bị cáo Phùng Văn C, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội giảm một phần hình phạt tù cho bị cáo Phùng Văn C, vừa thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, đối với những người ăn năn hối cải, cũng như tạo điều kiện động viên cho bị cáo yên tâm cải tạo tốt.

[4] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo Phạm Văn N3. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Đối với bị cáo Phạm Văn N3 thừa nhận hành vi phạm tội của mình bị cáo biết Phùng Văn C làm chủ lô, đề nên đã đến gặp C để xin làm thư ký ghi bán số lô, số đề; hàng ngày giúp C tính toán số tiền thắng thua các bảng lô đề của một số thư ký khác của C để được nhận tiền trả công. Tòa án cấp sơ thẩm quy kết các bị cáo Phạm Văn N3 là đồng phạm giúp sức cho C, vừa là người thực hành tích cực trong việc tổ chức đánh bạc là có căn cứ.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng cho các bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: bị cáo đều thành khẩn khai báo hành vi phạm tộị; Bị cáo Phạm Văn N3 có bố đẻ là ông Phạm Văn M là liệt sỹ, được tặng thưởng Huân chương, bị cáo đã nộp số tiền thu lời bất chính bị cáo N3 đã thực hiện nộp thu lời bất chính là 2.551.700 đồng (biên lai thu ngày 26/ 7/ 2021 của cục thi hành án dân sự tình Hưng Yên) và sau xét xử sơ thẩm tiền phạt 30.000.000 đông theo khoản 3 Điều 322 BLHS của quyết định bản án sơ thẩm. Như vậy bị cáo đã chấp hành xong một phần của quyết định của bản án sơ thẩm; Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điêu 17; Điều 38; Điều 54; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn N3 3 năm tù là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Văn N3 thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bản thân bị cáo bị bệnh nặng viêm tụy cấp thường xuyên phải đi cấp cứu; bị cáo Phạm Văn N3 là con trai duy nhất của liệt sỹ Phạm Văn M, sinh năm 1944, hy sinh ngày 14/ 12/1969 tại chiến trường phía N7, được thủ tướng chính phủ cấp bằng “TỔ QUỐC GHI CÔNG” ngày 31 / 8/ 2005 (BL; 697) và Ngày 24/ 01/ 1986, liệt sỹ Phạm Văn M được Hội đồng nhà nước CHXHCN-VN tặng Huân chương kháng chiến hạng ba vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (BL: 698); Bà Hồ Thị N3, sinh 1945 là mẹ của bị cáo Phạm Văn N3, có đơn trình bày hiện bà tuổi cao sức yếu, bị tiểu đường khiến mắt bị mờ hàng ngày phải đi tiêm điều trị ba lần, cuộc sống khó khăn, Phạm Văn N3 là người con duy nhất để nương nhờ lúc tuổi già bệnh tật; đơn có xác nhận của của UBND xã Lạc H, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Đồng thời bà Hồ Thị N3 có nộp đơn thuốc và sổ theo dõi điều trị nội tiết - đái tháo đường (BL: 669; 670). Ngoài ra cũng xét thấy, vợ chồng N3 và X đều bị cáo cùng trong vụ án này, bị cáo N3 là lao động chính trong gia đình, đang trực tiếp nuôi 5 con; nên cũng cần xem xét phân hóa trách nhiệm hình sự, để đảm bảo mục đích của hình phạt mang tính giáo dục cao nhất, thấu tình đạt lý. Những tình tiết giảm nhẹ này, đã thể hiện trong hồ sơ, được Tòa án cấp sơ thẩm đề cập. Tuy nhiên xét thấy, trong trường hợp cụ thể này, bị cáo N3 phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có chỗ cư trú ổn định, rõ ràng, được chính quyền địa phương là Ủy ban nhân dân xã Lạc H, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên xác nhận và đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội cho hưởng án treo; bị cáo là con duy nhất của liệt sỹ, đang thời cúng liệt sỹ và chăm sóc mẹ già (là vợ liệt sỹ) và chăm sóc các con. Vì sự nhân đạo và chính sách khoan hồng pháp luật hình sự, đồng thời cũng là thể hiện sự tri ân và chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với gia đình người có công với cách mạng, gia đình liệt sỹ. Do đó, trong trường hợp cụ thể này, cần vận dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn N3 cho bị cáo được hưởng án treo, tạo điều kiện cho để bị cáo Phạm Văn N3 có cơ hội vừa cải tạo tại địa phương, vừa được tiếp tục thờ cúng bố là liệt sỹ.

[5]. Đối với bị cáo Nguyễn Thị X, sau xét xử sơ thẩm có kháng cáo, tại phiên tòa phúc thẩm đã tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm theo là phù hợp với qui định của pháp luật. Tuy nhiên, ngay sau đó, trong phần tranh tụng Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội lại có ý kiến bổ sung, tiếp tục đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị X, với lý do “có bố chồng là liệt sỹ” theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tình tiết này đã được đánh giá (điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự) cho bị cáo Phạm Văn N3 là chồng của X trong cùng vụ án này. Đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị X đã tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội áp dụng Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị X, như phần nhận định ở trên và bị cáo Nguyễn Thị X không thuộc trường hợp tại khoản 1, khoản 3 “... cho những bị cáo không kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị” Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đề nghị truy thu số tiền thu lợi bất chính 19.075.250 đồng của Phùng Văn C, đối với số tiền này, Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, đã có nhận định (trang 23) nhưng không tuyên trong phần quyết định là thiếu sót, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ bổ xung cho đầy đủ và ghi nhận số tiền mà các bị cáo đã nộp bổ sung.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phùng Văn C; Phạm Văn N3 và chấp nhận một phần nghị của Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa phúc thẩm.

[6]. Về án phí:

- Bị cáo Phùng Văn C kháng cáo được chấp nhận không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

- Các bị cáo Nguyễn Thị X, Phạm Thị M1, Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 rút kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Phạm Văn N3 là con của liệt sĩ, có đơn xin miễn án phí tại phúc thẩm; theo qui định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[7]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị; có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phùng Văn C và chấp nhận kháng cáo Phạm Văn N3; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, cụ thể như sau:

1.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 322; điểm s, t, u khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Văn C 3 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, thời hạn thi hành án phạt tù, tính từ ngày bắt (đi) thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/7/2020 đến 22/02/202).

1.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 322; Điều 17; Điều 38; Điều 58 điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Văn N3 3 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 5 (năm) năm; giao bị cáo cho UBND xã Hồng Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.

Nếu trong thời giam thử thách bị cáo Phạm Văn N3 hai lần vi phạm nghia vụ thi hành án thì có thể tòa án thay đổi án treo sang cải tạo tập trung; Trong thời gian thử thách mà phạm tội mới, chịu hình phạt của bản án mới đồng thời và tổng hợp mức án treo chuyển thành giam.

[2]. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị X; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3; giữ nguyên quyết định về hình phạt tù của các bị cáo Nguyễn Thị X; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

[3]. Ghi nhận bị cáo 7đã nộp các khoản tiền sau:

- Bị cáo Phùng Văn C đã nộp 50.200.000 đồng (tiền phạt bổ xung 50.000.000 đồng; 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm); Tại biên lai thu tiền số AA/2021/0000297 ngày 28/11/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

- Bị cáo Phạm Văn N3 đã nộp số tiền thu lời bất chính là 2.551.700 đồng tại biên lai thu tiền số AA/2014/0001896 ngày 26/7/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

- Bị cáo Phạm Văn N3 30.200.000 đồng (tiền phạt bổ sung 30.000.000 đồng; 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm) tại biên lai thu tiền số AA/2021/0000298 ngày 28/11/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

[4]. Truy truy thu xung quỹ nhà nước số tiền thu lợi bất chính 19.075.250 đồng của Phùng Văn C, tại biên lai thu tiền số 0001918 ngày 07/9/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

[5]. Án phí:

- Các bị cáo Phùng Văn C; Nguyễn Thị X; Phạm Thị M1; Lê Thị X1 và Chu Thanh T3 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

- Bị cáo Phạm Văn N3 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 905/2022/HSPT

Số hiệu:905/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về