TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 67/2022/HS-PT NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 869/2021/TLPT-HS ngày 06 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Đồng Văn K do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 329/2021/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Bị cáo có kháng cáo:
ĐỒNG VĂN K, sinh năm: 1991; giới tính: Nam; ĐKNKTT: huyện S, thành phố Hà Nội; nơi ở: huyện S, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hoá: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Đồng Văn H và bà Nguyễn Thị H; vợ: Nguyễn Thị G, có 02 con sinh năm 2017 và 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt ngày 10/4/2021; có mặt.
Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn M không kháng cáo, không bị kháng nghị tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 09/4/2021 anh Đặng Văn A trú tại: huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đến Công an phường Ô Chợ Dừa trình báo về việc Nguyễn Văn M có hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe ô tô Toyota Innova, màu ghi bạc của anh.
Quá trình kiểm tra, xác minh ban đầu, ngày 09/4/2021 và 10/4/2021 Nguyễn Văn M và Đồng Văn K đã đến Công an phường Ô Chợ Dừa đầu thú.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn M và Đồng Văn K khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06/4/2021, Nguyễn Văn M liên lạc với anh Đặng Văn A để mượn chiếc xe ô tô Toyota Innova, màu ghi bạc để đi có việc, anh A đồng ý. Sau khi mượn xe, do cần tiền để trả nợ nên M nảy sinh ý định mang chiếc xe ô tô của anh A đi cầm cố lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân. Khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, M điều khiển xe ô tô đến cửa hàng mua bán xe máy của Đồng Văn K tại: huyện S, Hà Nội. Tại đây, M nói với K chiếc xe ô tô này là của gia đình và thoả thuận muốn cầm cố chiếc xe trên cho K. K đồng ý cho M cầm cố chiếc xe ô tô với giá 150.000.000 đồng dưới hình thức viết giấy mua bán xe ô tô. Sau đó, K đã đưa cho M 150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu). M sử dụng 25.000.000 đồng để đánh bạc và nhờ K đánh số “lô”, “đề” (gồm các số: “lô”: 66 x 700 điểm = 16.100.000 đồng; “đề”: 66 x 1.000.000 đồng; “đề” đầu 6 x 300.000 đồng = 3.000.000 đồng; “lô xiên 2”: 66 – 02 x 5.000.000 đồng). Sau đó K đã nhắn tin cho Tạ Thị L (Sinh năm: 1982, Trú tại: huyện S, Hà Nội) qua tài khoản zalo. Đến chiều ngày 07/4/2021 K đã đến nhà L thanh toán 25.000.000 (Hai mươi lăm triệu) đồng và được L cho 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng. Lần đánh bạc này M không thắng và ngày 07/4/2021, M quay lại cửa hàng của K và trả cho K số tiền 153.000.000 (Một trăm năm mươi ba triệu) đồng để chuộc lại xe ô tô (theo M khai số tiền này bao gồm tiền gốc là 150.000.000 đồng và tiền lãi là 3.000.000 đồng).
Đến khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/4/2021, M điều khiển xe ô tô đến nhà và đưa anh A cùng chị X(bạn gái anh A) đến Bệnh viện Bạch Mai để khám bệnh, tại đây M tiếp tục hỏi mượn xe ô tô của anh A để đi có việc, anh A đồng ý. M đang điều khiển xe ô tô thì bị đòi nợ nên nảy sinh ý định mang chiếc xe ô tô đến nhà K để cầm cố lần hai. M đã cầm cố xe với số tiền 150.000.000 đồng. M đã nhận tiền từ K đi trả nợ và đánh bạc ở khu vực huyện S và bị thua hết. Đến chiều cùng ngày M đến nhà K lấy thêm 27 triệu và nhắn tin cho K để mua số “lô”, “đề” với tổng số tiền là 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng (gồm: “Lô” 97, 17 x 500 điểm = 23.000.000 đồng; “lô xiên 2”: 97,17 x 7.000.000 đồng). Sau khi nhận số “lô”, “đề” từ M thì K đã nhắn tin cho Tạ Thị L qua tài khoản zalo. Đến tối cùng ngày, K đã chuyển khoản đến tài khoản của L 28.500.000 (Hai mươi tám triệu năm trăm nghìn) đồng và K được hưởng lợi 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng. Do thua hết tiền nên M không chuộc được xe để trả lại cho anh A, ngoài ra trước đây M nợ K 3.000.000 đồng. Tổng số tiền M nhận từ K để cầm cố xe lần 2 là 210 triệu đồng.
Ngày 08/4/2021, anh A nhiều lần gọi điện, nhắn tin cho M để đòi xe ô tô thì M nói do đánh bạc thua tiền nên đã cầm cố chiếc xe của anh A. Hiện A không có khả năng trả lại chiếc xe ô tô cho anh A và xin anh A cho M đi làm để trả dần. Tuy nhiên anh A không đồng ý và đã đến công an phường Ô Chợ Dừa trình báo sự việc.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 124/KL - HĐĐGTS ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Đống Đa kết luận: 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova, màu ghi bạc định giá 243.103.000 (Hai trăm, bốn mươi ba triệu, một trăm linh ba nghìn) đồng.
Tại bản kết luận giám định số 3770/C09 - P5 ngày 15/8/2021 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Chữ viết trên giấy mua bán xe cần giám định so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Văn M trên các mẫu so sánh do cùng một người ký, viết ra.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn M và Đồng Văn K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã triệu tập Tạ Thị L. Tại Cơ quan điều tra, L không thừa nhận hành vi bán số “lô”, “đề” cho K. L khai số tiền K chuyển khoản vào tài khoản của L là do K trả nợ. Hiện tài liệu thu thập trong quá trình điều tra không đủ cơ sở kết luận L có hành vi Đánh bạc với K nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn Văn M tại huyện S, M khai không biết địa chỉ cụ thể, không biết nhân thân lý lịch những người chơi cùng nên cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.
Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova, màu ghi bạc, qua xác minh xác định là tài sản hợp pháp của anh Đặng Văn A nên Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe ô tô trên cho anh A. Hiện anh A đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì khác.
Đối với việc K nhận cầm cố chiếc xe ô tô từ M, K yêu cầu M bồi thường số tiền 210.000.000 (Hai trăm mười triệu) đồng.
Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 329/2021/HSST ngày 28/10/2021 Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đã quyết định:
Áp dụng: Khoản 1 điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Đồng Văn K 16 (mười sáu) tháng tù về tội tổ chức đánh bạc, Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2021.
Ngoài ra bản án còn quyết định hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn M, quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/11/2021 bị cáo Đồng Văn K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:
Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận tòa án sơ thẩm đã xét xử Đồng Văn K với tội danh: “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 điều 322 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt 16 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới vì vậy đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo Đồng Văn K trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Căn cứ lời khai của bị cáo Đồng Văn K phù hợp với lời khai bị cáo Nguyễn Văn M, phù hợp lời khai bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã xét xử Nguyễn Văn M về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Đánh bạc” theo khoản 3 điều 175 và khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự; xét xử Đồng Văn K về tội “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 1 điều 322 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đồng Văn K, hội đồng xét xử thấy rằng:
Tòa án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội, xác định bị cáo phạm tội nhiều lần nên quyết định hình phạt tù không cho hưởng án treo là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm hội đồng xét xử có xem xét: Bản thân bị cáo nhân thân chưa tiền án, tiền sự; nhận thức được hành vi phạm tội, thành khẩn, ăn năn hối cải; số tiền hưởng lợi không lớn nên hình phạt 16 tháng tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, có căn cứ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo tốt.
Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đồng Văn K. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 329/2021/HSST ngày 28/10/2021 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Áp dụng: Khoản 1 điều 322; điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Đồng Văn K 12(mười hai) tháng tù về tội tổ chức đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2021.
- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 67/2022/HS-PT
Số hiệu: | 67/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về