Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 38/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG

BẢN ÁN 38/2022/HSPT NGÀY 07/03/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 07-3-2022, tại trụ sở. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 544/2021/TLPT-HS ngày 29-11-2021 đối với bị cáo Võ Oanh D cùng đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2021/HS-ST ngày 15-9-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Các bị cáo kháng cáo:

1. Võ Oanh D (tên gọi khác: D Chùa), sinh ngày 14-7-1980, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Võ Oanh V, sinh năm 1956 và bà Lê Thị N, sinh năm 1953; vợ là Trần Thị Ánh T, sinh năm 1984 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18-11-2019, đến ngày 29-4-2020 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh. Hiện đang tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Đình T, sinh ngày 19-11-1983, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Trần Đình C, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1962; vợ là Hoàng Uyên T, sinh năm 1991 và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23-7-2008, Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đà Nẵng xử phạt 48 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18-11-2019, đến ngày 25-3-2020 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh.

Ngày 23-9-2020, bị cáo bị bắt để tạm giam và đến ngày 15-10-2020, bị cáo bị bắt tạm giam trong vụ án khác. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam, có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Hồng Quang T1 (tên gọi khác: L), sinh ngày 04-12-1989, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Hồng Quang M, sinh năm 1964 và bà Trương Thị T, sinh năm 1964; vợ là Vũ Hoàng Ngọc L, sinh năm 1988 và có 02 con.

Tiền án: Ngày 15-5-2017, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Nam xử phạt 60.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc” (Đã chấp hành xong ngày 08-5-2020 - Chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt ngày 13-4-2020, đến ngày 08-7-2020 được thay thế biện pháp Tạm giam bằng biện pháp Bảo lĩnh. Hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Thị M, sinh ngày 15-11-1980, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT; thành phố H, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở hiện nay: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Kinh doanh; con ông Nguyễn Bá T (đã chết) và bà Tạ Thị T, sinh năm 1963; chồng Võ Oanh T, sinh năm 1982 và có 03 con (lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 201); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18-11-2019, đến ngày 25-3-2020 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh. Hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa mặt.

- Các bị cáo không kháng cáo:

1. Nguyễn Hồng L, sinh ngày 05-01-1990, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT: Tổ 8, thôn Vạn Lăng, xã cẩm T2, thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Phụ xe; con ông Nguyễn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị s, sinh năm 1954; vợ là Nguyễn Nhật Anh T, sinh năm 1994 và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Nguyễn Đức H (tên gọi khác: Ly), sinh ngày 15-6-1971, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: Thợ may; con ông Nguyên Đức C, sinh năm 1957 và bà bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); vợ là Trần Thị H (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18-11-2019, đến ngày 16-4-2020 được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh.

3. Lê T2 (tên gọi khác: Đ), sinh ngày 11-01-1987, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: Không; con ông Lê L (đã chết) và bà Hồ Thị T, sinh năm 1966; vợ là Nguyễn Thị B, sinh năm 1986 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

4. Nguyễn C, sinh ngày 18-7-1967, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Nguyễn C, sinh năm 1934 và bà Đỗ Thị L (đã chết); vợ là Nguyễn Hồng Ánh N, sinh năm 1974 và có 03 con (lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2011); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

5. Nguyễn Thị Thu H1 (tên gọi khác H), sinh năm 1957, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Hưu trí; con ông Nguyễn Đức C và bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); chồng là Nguyễn T, sinh năm 1960 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

6. H1 Văn D, sinh ngày 02-4-1980, tại Quảng Nam; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thành phố H, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Thợ may; con ông (không xác định được cha) và bà H1 Thị Đ (đã chết); vợ là Lê Thị Hồng C, sinh năm 1983 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Vụ án có 15 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và 06 bị cáo không kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 01-2018 đến ngày 18-11 -2019, lợi dụng Kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung và miền Nam, Võ Oanh D đã sử dụng số điện thoại 0905.842.907 để tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số đề do các đối tượng tổ chức đánh bạc cấp dưới chuyển đến. D cho những người chuyển tịch đề cho mình hưởng 09% trên tổng số tiền D nhận. Sau đó, dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung, miền Nam, D tính tiền thắng thua với các người chơi. Các hình thức cá cược và tỷ lệ chung chi trong hoạt động tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số đề do Võ Oanh D và đồng bọn thực hiện được quy định như sau:

- Đối với xổ số kiến thiết các tỉnh miền Trung và miền Nam:

+ Cá cược “Đầu” (hay “Thượng”) là so sánh cặp số cá cược với cặp số ở giải tám nếu trùng nhau là trúng (thắng). Tiền thắng sẽ được tính bằng số tiền cá cược nhân với 1,3 rồi nhân tiếp với 70 lần.

+ Cá cược “Đuôi” (hay “Hạ”) là so sánh cặp số cá cược với hai số cuối của giải đặc biệt, nếu trùng nhau là trúng (thắng). Tiền thắng sẽ được tính bằng số tiền cá cược nhân với 1,3 rồi nhân tiếp với 70 lần.

+ Cá cược bao lô 02 số là so sánh cặp số cá cược với hai số cuối của tất cả các lần quay từ giải tám đến giải đặc biệt (18 lần quay). Tiền thắng sẽ được tính bằng số tiền cá cược chia cho 18, sau đó nhân với 1,3 rồi nhân tiếp cho 70 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

+ Cá cược bao lô 03 số là so sánh 03 số cá cược với ba số cuối của tất cả các lần quay từ giải bảy đến giải đặc biệt (17 lần quay). Tiền thắng sẽ được tính bằng số tiền cá cược chia cho 17 nhân cho 1,3 và nhân 600 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

+ Cá cược độc đắc hay đặc biệt là so sánh 03 số cá cược với 03 số cuối của giải đặc biệt, nếu trùng nhau là trúng. Tiền thắng sẽ được tính bằng số tiền cá cược nhân cho 1,3 và nhân 500 lần.

+ Cá cược 6 lô nghĩa là so sánh 03 số cá cược với 03 số cuối của giải 7, giải 6, giải 5 và giải đặc biệt nếu trùng nhau là trúng. Tiền thắng sẽ được tính bằng số tiền cá cược chia cho 6 nhân với 1,3 nhân với 500 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

- Đối với xổ số kiến thiết miền Bắc:

+ Cá cược đầu là so sánh cặp số cá cược với cặp số tại 04 lần quay của giải bảy. Tỷ lệ tháng sẽ được tính bằng tiền cá cược chia 04 nhân với 1,3 và nhân 70 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

+ Cá cược đuôi là so sánh cặp số cá cược với hai số cuối của giải đặc biệt, nếu trùng nhau là trúng. Tỷ lệ tháng sẽ được tính bằng tiền cá cược nhân với 1,3 và nhân 70 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

+ Cá cược bao lô (hay lô) 02 số (cặp số) là so sánh 02 số cá cược với hai số cuối của tất cả các lần quay từ giải bảy đến giải đặc biệt (27 lần quay). Tiền thắng cược sẽ bằng tiền cá cược chia cho 27 (lô) nhân với 1,3 nhân với 70 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

+ Cá cược bao lô 03 số là so sánh 03 số cá cược với ba số cuối của tất cả các lần quay từ giải sáu đến giải đặc biệt (23 lần quay). Tiền thắng cược sẽ được tính bằng tiền cá cược chia cho 23 (lô) nhân 1,3 nhân 600 lần rồi nhân với số lần trúng thưởng.

+ Cá cược Xiên 2 (hay liên 2) là so sánh hai cặp số cá cược với hai số cuối của tất cả các lần quay từ giải bảy đến giải đặc biệt (27 lần quay) nếu trùng cả hai cặp số là trúng. Tiền thắng cược bằng số tiền cá cược nhân với 13 lần.

+ Cá cược Xiên 3 (hay Liên 3) là so sánh ba số cá cược với ba số cuối của tất cả các lần quay từ giải bảy đến giải đặc biệt (27 lần quay) nếu trùng cả ba cặp số là trúng. Tiền thắng cược bằng số tiền cá cược nhân với 52 lần.

+ Cá cược độc đắc hay đặc biệt là so sánh ba số cá cược với ba số cuối của giải đặc biệt, nếu trùng nhau là trúng. Tiền thắng cược sẽ được tính bằng tiền cá cược nhân 1,3 nhân với 500 lần.

Tùy cách tính tiền, nếu người chơi cá cược trúng được tính như trên, nhưng trên thực tế việc thanh toán tiền thắng, thua các đối tượng thỏa thuận với nhau chỉ thanh toán làm tròn số đến đơn vị ngàn đồng còn đơn vị trăm đồng trở xuống thì không tính.

I. Về hành vi của nhóm các bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc”:

1. Đối với Võ Oanh D:

Căn cứ tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ và kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung và miền Nam xác định từ tháng 01-2018 đến 18-11-2019, Võ Oanh D đã nhận tổng cộng 1.715 tin nhắn cá cược số đề do những người tổ chức khác chuyển đến cho D, trong đó có tổng số 143 lần tổ chức đánh bạc trên 22 đài, với số tiền từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) trở lên. Tổng số tiền tổ chức đánh bạc là 5.780.595.000 đồng (năm tỷ bảy trăm tám mươi triệu năm trăm chín mươi lăm nghìn đồng). Trong đó, xác định được Nguyễn Đức H, Trần Đình T và Nguyễn Thị M là những người trực tiếp chuyển tịch đề cho D. Có tổng cộng 59 lần D tổ chức đánh bạc trên một đài, trên một ngày có số tiền từ 20.000.000 (hai mươi triệu đồng) trở lên.

- Tổng số tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là: 2.935.636.000 đồng (hai tỷ chín trăm ba mươi lăm triệu sáu trăm ba mươi sáu nghìn đồng).

- Tổng số tiền thua cược (tiền thắng cược của con bạc) là: 2.844.959.000 đồng (hai tỷ tám trăm bốn mươi bốn triệu chín trăm năm mươi chín nghìn đồng).

- Tổng số tiền hoa hồng phải trả cho các đối tượng tổ chức đánh bạc (9% trên tổng số tiền đánh bạc hàng ngày chuyển cho D): 264.207.240 đồng (hai trăm sáu mươi bốn triệu hai trăm lẻ bảy nghìn hai trăm bốn mươi đồng).

- Tổng số tiền thu lợi bất chính (tiền hoa hồng) là: không đồng.

2. Đối với Trần Đình T:

Khoảng đầu tháng 9-2019, Trần Đình T tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số đề thắng thua bằng tiền, hàng ngày dựa vào xổ số kiến thiết các đài miền Bắc, miền Trung, miền Nam, T sử dụng số điện thoại 0905.335.233 để nhận tịch đề do những người tổ chức dưới mình chuyển đến, với số tiền mỗi đài trên 5.000.000 đồng. T tổng hợp lại và chia ra để chuyển cho người đàn ông tên Q (số điện thoại 0385.031.978, không xác định được nhân thân) và Võ Oanh D (số điện thoại 0905.842.907) nhằm hưởng hoa hồng 9% đến 10% trên tổng số tiền chuyển tịch đề hàng ngày. T cho những người tổ chức dưới T hưởng hoa hồng và hưởng chênh lệch 01% trong tổng số tiền T nhận tịch đề trong ngày. Ngoài ra, T tự giữ lại một phần và dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung và miền Nam để thanh toán tiền thắng thua với các người chơi.

Từ tháng 9-2019 đến 18-11-2019, Trần Đình T đã nhận tổng cộng 635 tin nhắn cá cược số đề của Hồng Quang T1, Nguyễn Hồng L, sau đó tổng hợp chuyển tịch đề cho Võ Oanh D để hưởng hoa hồng, trong đó có tổng số 49 lần tổ chức đánh bạc trên 15 đài, với số tiền từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) trở lên. Tổng số tiền tổ chức đánh bạc là 5.192.481.000 đồng (năm tỷ một trăm chín mươi hai triệu bốn trăm tám mươi mốt nghìn đồng). Trong đó, từ tháng 9-2019 đến tháng 11-2019, T có tổng cộng 42 lần tổ chức đánh bạc trên một đài, trên một ngày, với số tiền trên 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), trong đó:

- Tổng số tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là: 2.643.296.000 đồng (hai tỷ sáu trăm bốn mươi ba triệu hai trăm chín mươi sáu nghìn đồng).

- Tổng số tiền người chơi thắng cược (tiền thắng cược của con bạc) là: 2.549.185.000 đồng (hai tỷ năm trăm bốn mươi chín triệu một trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

- Tổng số tiền cá cược T chuyển để hưởng hoa hồng: 1.629.339.000 đồng (một tỷ sáu trăm hai mươi chín triệu ba trăm ba mươi chín nghìn đồng).

- Tổng số tiền T giữ lại để tổ chức đánh bạc: 1.013.957.000 đồng (một tỷ không trăm mười ba triệu chín trăm năm mươi bảy nghìn đồng);

- Tổng số tiền người chơi tháng (đối với các số T giữ lại): 901.636.000 đồng (chín trăm lẻ một triệu sáu trăm ba mươi sáu nghìn đồng).

- Tổng số tiền hoa hồng phải trả cho người tổ chức (đối với những số mà T giữ lại là 09%): 91.256.000 đồng (chín mươi mốt triệu hai trăm năm mươi sáu nghìn đồng). "

- Tổng số tiền T thu lợi bất chính từ việc tổ chức đánh bạc là: 37.358.000 đồng (ba mươi bảy triệu ba trăm năm mươi tám nghìn đồng), cụ thể:

+ Tổng số tiền thu lợi bất chính đối với những số T giữ lại: 21.065.000 đồng (hai mươi mốt triệu không trăm sáu mươi lăm nghìn đồng);

+ Tổng số tiền T hưởng hoa hồng từ việc T chuyển số (1%) là: 16.293.000 đồng (mười sáu triệu hai trăm chín mươi ba nghìn đồng).

3. Đối với Hồng Quang T1:

Thông qua mối quan hệ xã hội, biết Trần Đình T tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề thắng, thua bằng tiền, nên Hồng Quang T1 đã chủ động liên lạc với T đề cập việc ghi số lô đề chuyển lại cho T, được T đồng ý và cho T1 hưởng hoa hồng 09% trên tổng số tiền trong tịch đề chuyển cho T. Hàng ngày, T1 sử dụng số điện thoại 0932.15.77.42 để tổ chức nhận số đề từ người chơi trên địa bàn thành phố H, tỉnh Quảng Nam, sau đó tổng hợp lại rồi chuyển “tịch đề” qua tin nhắn SMS điện thoại cho T qua số điện thoại 0905.335.233. Căn cứ dữ liệu điện tử được trích xuất từ điện thoại của Trần Đình T, lời khai nhận của Hồng Quang T1 xác định: Ngày 10-11-2019, T1 đã tổ chức cho nhiều người tham gia đánh bạc các đài Khánh Hòa, Kon Tum và miền Bắc sau đó tổng hợp, chuyển cho T với tổng số tiền cụ thể: Đài Khánh Hòa 17.000.000 (mười bảy triệu) đồng, đài Kon Tum 17.700.000 (mười bảy triệu bảy trăm nghìn) đồng, đài miền Bắc 3.300.000 (ba triệu ba trăm nghìn) đồng.

Từ tháng 9-2019 đến ngày 18-11-2019, Hồng Quang T1 đã nhận tổng cộng 238 tin nhắn cá cược số đề của Lê T2, H1 Văn D, Hồ Chí H và nhiều người khác chuyển đến nhằm thu lợi bất chính, trong đó có tổng số 28 lần tổ chức đánh bạc trên 10 đài với số tiền từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) trở lên. Tổng số tiền tổ chức đánh bạc là 925.231.000 đồng (chín trăm hai mươi lăm triệu hai trăm ba mươi mốt nghìn đồng) của nhiều người đánh bạc chuyển đến. Trong đó, từ tháng 9-2019 đến 11-2019, T1 có tổng cộng 9 lần số tiền tổ chức đánh bạc trên một đài, trên một ngày từ 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) trở lên.

- Tổng số tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là 518.558.000 đồng (năm trăm mười tám triệu năm trăm năm mươi tám nghìn đồng).

- Tổng số tiền người chơi tháng là 406.673.000 đồng (bốn trăm lẻ sáu triệu sáu trăm bảy mươi ba nghìn đồng).

- Tổng số tiền hoa hồng mà bị cáo nhận đối với việc tổ chức đánh bạc là 46.670.220 đồng (bốn mươi sáu triệu sáu trăm bảy mươi nghìn hai trăm hai mươi đồng).

4. Đối với Nguyễn Hồng L:

Thông qua các mối quan hệ xã hội, biết Trần Đình T tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề thắng thua bằng tiền, nên Nguyễn Hồng L đã chủ động liên lạc với T đề cập việc ghi số lô đề chuyển lại cho T, được T đồng ý và cho L hưởng hoa hồng 09% trên tổng số tiền tịch đề chuyển hàng ngày. Trong khoảng thời gian từ tháng 9-2019 đến ngày 18-11-2019, L sử dụng số điện thoại 0762.677.790 để tổ chức nhận số đề từ người chơi trên địa bàn thành phố H, tỉnh Quảng Nam sau đó tổng hợp lại rồi chuyển “tịch đề” qua tin nhắn SMS điện thoại cho T qua số 0905.335.233.

Trong khoảng thời gian từ tháng 9-2019 đến ngày 18-11-2019, Nguyễn Hồng L đã nhận tổng cộng 56 tin nhắn cá cược số đề của Lê Thành T, Nguyễn Viết Nam, Lê Văn Hoàn và nhiều người khác chuyển đến nhằm thu lợi bất chính; trong đó, có tổng số 09 lần tổ chức đánh bạc trên 07 đài, với số tiền từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) trở lên. Tổng số tiền tổ chức đánh bạc là 150.523.000 đồng (một trăm năm mươi triệu năm trăm hai mươi ba nghìn đồng). Trong đó, từ tháng 9-2019 đến 11-2019, L có tổng cộng 02 lần tổ chức đánh bạc trên một đài, trên một ngày số tiền từ 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) trở lên.

- Tổng số tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là: 101.929.000 đồng (một trăm lẻ một triệu chín trăm hai mươi chín nghìn đồng).

- Tổng số tiền người chơi thắng là: 48.594.000 đồng (bốn mươi tám triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn đồng).

- Tổng số tiền hoa hồng mà bị cáo nhận đối với việc tổ chức đánh bạc là: 9.173.610 đồng (chín triệu một trăm bảy mươi ba ngàn sáu trăm mười nghìn đồng).

5. Đối với Nguyễn Thị M:

Khoảng đầu tháng 7-2019, Nguyễn Thị M sử dụng số điện thoại 0905.608.963 để nhận tiền cá cược số đề của các người chơi, sau đó M tổng hợp lại và chuyển Võ Oanh D qua số điện thoại 0905.842.907 nhiều lần, với số tiền trên 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) để hưởng hoa hồng là 09% trên tổng số tiền chuyển tịch đề trong ngày. Sau đó, dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung và miền Nam, M thanh toán tiền thắng thua với Võ Oanh D rồi chi trả lại các người chơi.

Trong khoảng thời gian từ tháng 7-2019 đến ngày 18-11-2019, Nguyễn Thị M đã nhận tổng cộng 65 tin nhắn cá cược số đề Trần Thái Hạ Đoan, Lưu Thị M Linh và nhiều người khác chuyển đến nhằm thu lợi bất chính, trong đó có tổng số 4 lần tổ chức đánh bạc trên 03 đài với số tiền từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) trở lên. Tổng số tiền tổ chức đánh bạc là 96.423.000 đồng (chín mươi sáu triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn đồng) của nhiều người đánh bạc chuyển đến.

- Tổng số tiền người chơi cá cược là: 35.809.000 đồng (ba mươi lăm triệu tám trăm lẻ chín nghìn đồng).

- Tổng số tiền người chơi thắng là: 60.614.000 đồng (sáu mươi triệu sáu trăm mười bốn nghìn đồng).

- Tổng số tiền hoa hồng mà Nguyễn Thị M nhận đối với việc tổ chức đánh bạc là: 3.222.810 đồng (ba triệu hai trăm hai mươi hai ngàn tám trăm mười đồng).

6. Đối với Nguyễn Đức H:

Khoảng đầu tháng 9-2019, Nguyễn Đức H sử dụng số điện thoại 0903.185.823 để nhận tin nhắn cá cược số đề của các người chơi sau đó tổng hợp lại và chuyển Võ Oanh D (số điện thoại 0905.842.907), với số tiền trên 5.000.000 đồng/mỗi lần và được D cho hưởng 09% hoa hồng trên tổng số tiền chuyển tịch đề trong ngày. Dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung và miền Nam, H thanh toán tiền thắng thua với Võ Oanh D rồi chi trả lại các người chơi.

Trong khoảng thời gian từ tháng 9-2019 đến ngày 18-11-2019, Nguyễn Đức H đã nhận 30 tin nhắn cá cược số đề của Nguyễn Thị Thu H1, Nguyễn C, Nguyễn Quốc Mạnh, Phạm Văn Khoa, Phạm Trọng Minh, Nguyễn Hữu T và nhiều người khác chuyển đến nhàm thu lợi bất chính, trong đó có tổng số 03 lần tổ chức đánh bạc trên 03 đài, với số tiền từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) trở lên. Tổng số tiền tổ chức đánh bạc là 50.884.000 đồng (năm mươi triệu tám trăm tám mươi bốn nghìn đồng). Trong đó, có 01 lần số tiền tổ chức đánh bạc trên một đài, trên một ngày số tiền trên 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) vào ngày 17-11-2019, H đã tổ chức đánh bạc với số tiền 23.770.000 đồng (hai mươi ba triệu bảy trăm bảy mươi nghìn đồng) của đài Kon Tum.

- Tổng số tiền người chơi cá cược là: 22.110.000 đồng (hai mươi hai triệu một trăm mười nghìn đồng).

- Tổng số tiền người chơi thắng là: 28.774.000 đồng (hai mươi tám triệu bảy trăm bảy mươi bốn nghìn đồng).

- Tổng số tiền hoa hồng mà H nhận đối với việc tổ chức đánh bạc: 1.989.900 đồng (một triệu chín trăm tám mươi chín nghìn chín trăm đồng).

II. Về hành vi của nhóm các bị cáo phạm tội “Đánh bạc”:

1. Đối với Lê T2:

Thông qua mối quan hệ xã hội, biết Hồng Quang T1 tổ đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề thắng thua bằng tiền, ngày 10-11-2019, Lê T2 sử dụng số điện thoại 0905.395.318 và 0777.502.535 để nhắn tin (SMS) cá cược số đề thắng, thua bằng tiền với Hồng Quang T1 qua số điện thoại 0932.157.742 của đài Kon Tum và Khánh Hòa con số 17, bao 18 lô với số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), mỗi đài 5.000.000 đồng.

Kết quả xổ số trong ngày 10-11-2019, đài Khánh Hòa có con số 17, Lê T2 trúng 25.277.000 (hai mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi bảy nghìn đồng), số tiền cược và tiền thắng thua 2 đài trong ngày 10-11-2019 của Lê T2 cụ thể: Đài Khánh Hòa là 30.277.000 đồng (ba mươi triệu hai trăm bảy mươi bảy nghìn đồng), đài Kon Tum là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Lê T2 trong ngày 10-11-2019 ở hai đài Khánh Hòa và Kom Tum là 35.277.000 đồng (ba mươi lăm triệu hai trăm bảy mươi bảy nghìn đồng).

2. Đối với Nguyễn C:

Thông qua mối quan hệ xã hội, biết Nguyễn Đức H tổ đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề thắng thua bằng tiền, ngày 17-11-2019, Nguyễn C sử dụng số điện thoại 0913.433.226 để nhắn tin (SMS) cá cược số đề thắng, thua bằng tiền với Nguyễn Đức H qua số điện thoại 0903.185.823. Đài miền Bắc các con số 25, bao 27 lô với số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng); con số 225, giải độc đắc với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng); số 225, bao 23 lô với số tiền 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng); cá cược đài Kon Tum các con số 215 bao 17 lô với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), con số 215 bao 6 lô với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), con số 215 giải độc đắc với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), con số 15 bao 18 lô với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng); cá cược đài Khánh Hòa các con số 215 bao 17 lô với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), số 15 bao 18 lô với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng).

Kết quả xổ số trong ngày 17-11-2019 đài Kon Tum có con số 215 và con số 15, c trúng được số tiền là 15.500.000 đồng (mười lăm triệu năm trăm nghìn đồng), số tiền cá cược và tiền thắng thua 3 đài trong ngày 17-11-2019 của Nguyễn C cụ thể: Đài miền Bắc là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng), đài Kon Tum là 16.800.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng), dải Khánh Hòa là 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng).

Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Nguyễn C trong ngày 17-11-2019 của đài Kon Tum là 16.800.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng).

3. Đối với Nguyễn Thị Thu H1:

Biết Nguyễn Đức H (là em ruột của Hl) tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề thắng thua bằng tiền. Ngày 17-11-2019, Nguyễn Thị Thu H1 sử dụng số điện thoại 0766.550.997 nhắn tin (SMS) cá cược số đề thắng, thua bằng tiền với Nguyễn Đức H qua số điện thoại 0903.185.823, với tổng số tiền là 6.350.000 đồng (sáu triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng) cụ thể: Đài Miền Bắc cá cược các con số 53, bao 27 lô với số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng); con số 41, bao 27 lô với số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng); con số 22, bao 27 lô với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng); con số 37, bao 27 lô với số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng); 03 xiên (53,41), (41,22), (53,22) với số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng); xiên (53, 37) với số tiền 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Kết quả xổ số kiến thiết đài miền Bắc không có các con số mà H1 cá cược.

Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Nguyễn Thị Thu H1 trong ngày 17-11-2019 ở đài miền Bắc là 6.350.000 đồng (sáu triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).

4. Đối với H1 Văn D:

Thông qua mối quan hệ xã hội, biết Hồng Quang T1 tổ đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề thắng thua bằng tiền, ngày 10-11-2019, H1 Văn D sử dụng số điện thoại 0905.443.580 để nhắn tin (SMS) cá cược số đề thắng, thua bằng tiền với Hồng Quang T1 qua số điện thoại 0932.157.742 dựa vào xổ số kiến thiết các đài Kon Tum và Khánh Hòa các con số: 70,66,39 giải tám và giải độc đắc, với số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng); 70, 66, 39 bao 18 lô, với số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng); 570, 932,466, 239, 527 giải độc đắc, với số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng); 27,32 giải độc đắc, với số tiền 800.000 đồng  (tám trăm nghìn đồng); đài Kon Tum các con số: 11, đánh giải tám và giải đặc biệt, với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng); 11, bao 18 lô với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng); 511, giải độc đắc với số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Kết quả xổ số trong ngày 10-11-2019, đài Khánh Hòa có con số 70,66, D trúng 2.022.000 đồng (hai triệu không trăm hai mươi hai nghìn đồng) và đài Kon Tum có con số 66 (02 lô), với số tiền 2.022.000 đồng (hai triệu không trăm hai mươi hai nghìn đồng), số tiền cược và tiền thắng thua 2 đài trong ngày 10-11-2019 của H1 Văn D cụ thể: đài Khánh Hòa là 4.122.000 đồng (bốn triệu một trăm hai mươi hai nghìn đồng) và Đài Kon Tum là 5.122.000 đồng (năm triệu một trăm hai mươi hai nghìn đồng).

Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của H1 Văn D trong ngày 10-11-2019 ở đài Kon Tum là 5.122.000 đồng (năm triệu một trăm hai mươi hai nghìn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 58/2021/HS-ST ngày 15-9-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Qung Nam:

Tuyên bố các bị cáo Võ Oanh D, Trần Đình T, Nguyễn Thị M, Nguyễn Đức H, Hồng Quang T1 và Nguyễn Hồng L phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Tuyên bố các bị cáo Lê T2, Nguyễn C, Nguyễn Thị Thu H1 và H1 Văn D phạm tội “Đánh bạc”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Võ Oanh D 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18-11-2019 đến ngày 29-4-2020 là 5 tháng 11 ngày).

Phạt tiền: 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

2. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Đình T 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18-11-2019 đến ngày 25-3-2020 và từ ngày 23-9-2020 đến ngày 15-10-2020 là 04 tháng 28 ngày.

Phạt tiền: 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

3. Áp dụng vào điểm c, đ khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt

- Hồng Quang T1 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 13-4-2020 đến ngày 08-7-2020 là 02 tháng 24 ngày).

Phạt tiền: 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng) để nộp Ngân sách nhà nước.

4. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Hồng L 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Phạt tiền: 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) để nộp Ngân sách nhà nước.

5. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Thị M 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án (được trừ thời gian tạm từ ngày 18-11-2019 đến ngày 25-3-2020 là 04 tháng 05 ngày).

Phạt tiền: 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

6. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Đức H 09 (chín) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án (được trừ thời gian đã tạm giam từ ngày 18-11-2019 đến ngày 16-4-2020 là 04 tháng 29 ngày).

Phạt tiền: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

7. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Lê T2 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Phạt tiền: 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

8. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn C 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là ngày Ủy ban nhân dân phường Minh An, thành phố H nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn C cho Ủy ban nhân dân phường Minh An, thành phố H, tỉnh Quảng Nam giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Phạt tiền: 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

9. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Thị Thu H1 số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) về tội “Đánh bạc” để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- H1 Văn D số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng) về tội “Đánh bạc” để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định truy thu tiền thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 16-9-2021, Võ Oanh D và Nguyễn Thị M kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

- Ngày 20-9-2021, Hồng Quang T1 kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 24-9-2021, Trần Hồng T kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt. Đơn kháng cáo của các bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, Võ Oanh D thay đổi nội dung kháng cáo, xin giảm hình phạt, Nguyễn Thị M thay đổi nội dung kháng cáo, xin được phạt tiền; các bị cáo Hồng Quảng T1 và Trần Hồng T giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các bị cáo không tranh luận, chỉ xin giảm hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo:

[2.1]. về tội danh:

Lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền Bắc, miền Trung và miền Nam, từ tháng 01-2018 đến ngày 18-11-2019, Võ Anh D sử dụng số điện thoại 0905.842.907 để tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi lô đề thông qua việc nhận tin nhắn cá cược số đề do những người khác chuyển đến cho D. Trong đó, tổng số tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là: 2.935.636.000 đồng; tổng số tiền thua cược (tiền thắng cược của con bạc) là: 2.844.959.000 đồng; tổng số tiền hoa hồng phải trả cho các đối tượng tổ chức đánh bạc (09% trên tổng số tiền đánh bạc hàng ngày chuyển cho D) là 264.207.240 đồng. Do người chơi đánh thắng, nên Võ Oanh D thua và không thu lợi bất chính.

Các đối tượng tổ chức đánh bạc và đánh bạc cùng với Võ Oanh D gồm:

- Trần Đình T sử dụng điện thoại di động số 0905.335.233 để nhận tin nhắn cá cược số đề do những người tổ chức khác chuyển đến. Sau đó, T tổng hợp lại rồi chuyển cho Võ Oanh D qua số điện thoại 0905.842.907 và người đàn ông tên Q (số điện thoại 0385.031.978, không xác định được nhân thân), nhằm hưởng hoa hồng 09% đến 10% trên tổng số tiền chuyển tịch đề hàng ngày. T trả cho những người tổ chức dưới T hưởng hoa hồng, còn T hưởng chênh lệch 01% trong tổng số tiền T nhận tịch đề trong ngày. Ngoài ra, T tự giữ lại một phần để tổ chức đánh bạc (làm chủ cái) là 1.013.957.000 đồng; trong đó, số tiền người chơi thắng cược (đối với các số T giữ lại) là 901.636.000 đồng, số tiền hoa hồng phải trả cho người tổ chức (đối với những số mà T giữ lại 09%) là 91.256.000 đồng, Trần Đình T thu lợi 21.065.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền Trần Đình T thu lợi bất chính là 37.358.000 đồng; trong đó, có 21.065.000 đồng thu lợi từ số T giữ lại làm chủ cái, 16.293.000 đồng mà T hưởng hoa hồng 01% từ việc chuyển tịch đề.

- Hồng Quang T1 sử dụng số điện thoại 0932.15.77.42 của T1 để tổ chức nhận số đề từ người chơi trên địa bàn thành phố H, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, tổng hợp lại rồi chuyển “tịch đề” qua tin nhắn SMS điện thoại cho Trần Đình T qua số điện thoại 0905.335.233 và được hưởng chênh lệch 09% trên tổng số tiền trong tịch đề chuyển cho T. Tổng số tiền mà Hồng Quang T1 tổ chức đánh bạc là 925.231.000 đồng; trong đó: số tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là 518.558.000 đồng, số tiền người chơi tháng là 406.673.000 đồng. Hồng Quang T1 nhận hoa hồng 09% trên tổng số tiền chuyển tịch đề là 46.670.220 đồng.

- Nguyễn Hồng L sử dụng số điện thoại 0762.677.790 để tổ chức nhận số đề từ người chơi trên địa bàn thành phố H, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, tổng hợp lại rồi chuyển “tịch đề” qua tin nhắn SMS điện thoại cho Trần Đình T qua số điện thoại 0905.335.233, được hưởng chênh lệch 09% trên tổng số tiền trong tịch đề chuyển cho T. Tổng số tiền mà L tổ chức đánh bạc là 150.523.000 đồng; trong đó, tiền cá cược (tiền đánh bạc của người chơi) là 101.929.000 đồng; tiền người chơi thắng là 48.594.000 đồng. Tổng số tiền hoa hồng mà Nguyễn Hồng L nhận đối với việc tổ chức đánh bạc là 9.173.610 đồng.

- Nguyễn Thị M sử dụng số điện thoại 0905.608.963 để nhận cá cược số đề của người chơi. Sau đó, M tổng hợp lại và chuyển Võ Oanh D qua số điện thoại 0905.842.907 để hưởng hoa hồng là 09% trên tổng số tiền chuyển tịch đề trong ngày. Tổng số tiền mà M tổ chức đánh bạc là 96.423.000 đồng; trong đó, số tiền người chơi cá cược là 35.809.000 đồng, số tiền người chơi tháng là 60.614.000 đồng. Tổng số tiền hoa hồng mà Nguyễn Thị M nhận đối với việc tổ chức đánh bạc là 3.222.810 đồng.

- Nguyễn Đức H sử dụng số điện thoại 0903.185.823 để nhận tin nhắn cá cược số đề của người chơi. Sau đó, tổng hợp lại và chuyển Võ Oanh D qua số điện thoại 0905.842.907, với số tiền trên 5.000.000 đồng/mỗi lần và được D cho hưởng 09% hoa hồng trên tổng số tiền chuyển tịch đề trong ngày. Tổng số tiền mà H tổ chức đánh bạc là 50.884.000 đồng; trong đó, số tiền người chơi cá cược là 22.110.000 đồng, số tiền người chơi thắng là 28.774.000 đồng. Tổng số tiền hoa hồng mà Nguyễn Đức H nhận đối với việc tổ chức đánh bạc là 1.989.900 đồng.

Ngoài ra, từ ngày 10-11-2019 đến ngày 17-11-2019, Lê T2, Nguyễn C, Nguyễn Thị Thu H1 và H1 Văn D tham gia đánh bạc bằng hình thức sử dụng điện thoại di động để nhắn tin cá cược số đề với Hồng Quang T1, Nguyễn Đức H ở đài miền Bắc, đài Kon Tum và đài Khánh Hòa. Tổng số tiền mà Lê T2 đánh bạc là 35.277.000 đồng; tổng số tiền Nguyễn C đánh bạc là 16.800.000 đồng; tổng số tiền Nguyễn Thị Thu H1 đánh bạc là 6.350.000 đồng và H1 Văn D đánh bạc là 5.122.000 đồng.

Với hành vi phạm tội như đã nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam kết án Võ Oanh D, Trần Đình T, Hồng Quang T1, Nguyễn Hồng L, Nguyễn Thị M và Nguyễn Đức H về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; kết án Lê T2, Nguyễn C, Nguyễn Thị Thu H1 và H1 Văn D về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

[2.2.1]. Đối với hình phạt chính:

Các bị cáo đều có đủ năng lực hành vi để nhận thức được việc làm của mình; biết rõ hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép dưới hình thức cá cược lô đề, được thua bằng tiền bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì hám lợi các bị cáo đã nhiều lần tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, trị an tại địa phương. Do vậy, cần phải xử phạt các bị cáo một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.

- Đối với Võ Oanh D:

Trong vụ án này, Võ Oanh D giữ vai trò chính, bị cáo là người tổ chức đánh bạc (nhà cái trên) và trực tiếp dùng điện thoại di động của mình trợ giúp cho các bị cáo khác đánh bạc nhằm thu lợi bất chính. Từ tháng 01-2018 đến ngày 18-11 -2019, bị cáo tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 5.780.599.000 đồng, trong đó có số tiền dùng đánh bạc trong cùng một lần 20.000.000 đồng trở lên. Do đó, bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; mặc dù, bị cáo giữ vai trò đầu vụ, nhưng trong vụ án này, bị cáo không thu lợi bất chính. Ngoài ra, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm (có xác nhận của Công an phường Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn); bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, vợ bị bệnh (có xác nhận của chính quyền địa phương và có bệnh án của Bệnh viện); gia đình bị cáo có công với cách mạng, nhân thân bị cáo mới lần đầu phạm tội; trước và sau khi phạm tội bị cáo tham gia nhiệt tình các công tác xã hội, giúp đỡ nhiều gia Đình Có hoàn cảnh khó khăn, các bà mẹ Việt Nam anh hùng (có xác nhận của chính quyền địa phương). Ngoài ra, quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền bị phạt; theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ giảm hình phạt tù cho bị cáo và mức giảm hình phạt sẽ nhiều hơn các bị cáo khác.

- Đối với Trần Đình T:

Trần Đình T vừa là người ghi tịch đề để hưởng hoa hồng, vừa làm nhà cái nhận cược đề của các con bạc, chung tiền thắng thua cho người chơi và hưởng lợi từ việc các con bạc thua cược. Bị cáo T tổ chức đánh bạc với tổng số tiền là 5.192.481.000 đồng; thu lợi bất chính số tiền là 37.358.000 đồng. Do đó, bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vợ không có việc làm và có hai con nhỏ; đã tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền truy thu và tiền phạt, nên theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

- Đối với Hồng Quang T1 :

Hồng Quang T1 giữ vai trò tổng hợp và ghi tịch đề cho Trần Đình T để hưởng hoa hồng từ việc ghi đề. Tổng số tiền bị cáo tổ chức đánh bạc là 925.231.000 đồng, số tiền bị cáo thu lợi bất chính là 46.670.220 đồng. Do đó, bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vợ bị bệnh, có hai con nhỏ và hiện nay bị cáo đang phải nuôi cha, mẹ già; đã tự nguyện nộp số tiền truy thu và tiền phạt, nên theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, nhưng do bị cáo có tiền án, nên mức giảm hình phạt sẽ được Hội đồng xét xử phúc thẩm cân nhắc.

- Đối với Nguyễn Thị M:

Nguyễn Thị M giữ vai trò là người tổng hợp và ghi tịch đề để hưởng hoa hồng. Tổng số tiền bị cáo tổ chức đánh bạc là 96.423.000 đồng, thu lợi bất chính 3.222.810 đồng. Do đó, bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 12 (mười hai) tháng tù.

Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, chồng bị bệnh ung thư thận (có bệnh án của Bệnh viện), có 03 con nhỏ; bị cáo là lao động chính trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương); bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, số tiền bị cáo thu lợi trong vụ án này không lớn và đã tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền truy thu và tiền phạt, nên theo Án lệ số 48/2021/AL ngày 25-11-2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[2.2.2]. Đối với hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt tù, thì Tòa án cấp sơ thẩm còn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Tuy nhiên, để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật về việc xử lý đối với các hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên hình phạt bổ sung mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với các bị cáo.

[2.3]. Về xử lý vật chứng:

Các bị cáo kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm đều đề nghị xem xét, giải quyết số tiền mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tạm giữ của các bị cáo. Để giải quyết triệt để vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ khấu trừ tiền phạt, tiền truy thu và tiền án phí sơ thẩm của từng bị cáo, cụ thể:

- Đối với Võ Oanh D:

Tòa án cấp sơ thẩm phạt tiền 40.000.000 đồng và quyết định tạm giữ của bị cáo 374.600.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp 40.000.000 đồng tiền phạt và 200.000 đồng án phí sơ thẩm (Biên lai thu tiền số 0000010 ngày 20-10-2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam). Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ tuyên trả lại bị cáo 374.600.000 đồng.

- Đối với Trần Đình T:

Tòa án cấp sơ thẩm phạt tiền 35.000.000 đồng; tịch thu tiền thu lợi bất chính 37.358.000 đồng và tạm giữ của bị cáo 578.881.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp 35.000.000 đồng tiền phạt, 37.558.000 đồng tiền tịch thu và 200.000 đồng án phí sơ thẩm (Biên lai thu tiền số 0000191 ngày 03-3-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam). Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ tuyên trả lại bị cáo 578.881.000 đồng.

- Đối với Nguyễn Thị M:

Tòa án cấp sơ thẩm phạt tiền 25.000.000 đồng; tịch thu tiền thu lợi bất chính 3.222.810 đồng và tạm giữ của bị cáo 60.000.000 đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp 25.000.000 đồng tiền phạt, 3.222.810 đồng tiền tịch thu và 200.000 đồng án phí sơ thẩm (Biên lai thu tiền số 0000011 ngày 20-10-2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam). Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét, giải quyết số tiền tạm giữ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của các bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và có cơ sở để chấp nhận một phần.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Do kháng cáo được chấp nhận, nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c, đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Oanh D, Trần Đình T, Hồng Quang T1 và Nguyễn Thị M.

- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2021/HS-ST ngày 15-9-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam về hình phạt chính đối với các bị cáo Võ Oanh D, Trần Đình T, Hồng Quang T1 và Nguyễn Thị M.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Võ Oanh D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18-11-2019 đến ngày 29-4-2020 là 5 tháng 11 ngày).

- Phạt bổ sung 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng) đối với Võ Oanh D để nộp ngân sách Nhà nước.

2.2. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Trần Đình T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam, từ ngày 18-11-2019 đến ngày 25-3-2020 và từ ngày 23-9-2020 đến ngày 15-10-2020 là 04 tháng 28 ngày).

- Phạt bổ sung 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

2.3. Áp dụng vào điểm c, đ khoản 1, khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Hồng Quang T1 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án (được trừ thời gian tạm giam, từ ngày 13-4-2020 đến ngày 08-7-2020 là 02 tháng 24 ngày).

- Phạt bổ sung 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng) đối với Hồng Quang T1 để nộp Ngân sách nhà nước.

Bị cáo Hồng Quang T1 bị phạt bổ sung 35.000.000 đồng, bị truy thu số tiền thu lợi bất chính 46.670.220 đồng; tổng cộng là 81.670.200 đồng, nhưng được trừ vào số tiền bị cáo đã nộp là 20.000.000 đồng (theo các Biên lai thu tiền số 0002185 ngày 09-9-2021 và số 0000177 ngày 07-02-2022, đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam). Hồng Quang T1 còn phải thi hành 61.670.200 đồng (sáu mốt triệu sáu trăm bảy mươi nghìn hai trăm đồng).

2.4. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Thị M số tiền 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Khấu trừ tiền phạt 60.000.000 đồng (là hình phạt chính) vào số tiền mà bị cáo bị tạm giữ là 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2021/HS-ST ngày 15-9-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam để nộp vào Ngân sách Nhà nước. Bị cáo Nguyễn Thị M đã thi hành xong phần hình phạt.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên trả lại các bị cáo: Võ Oanh D 374.600.000 đồng (ba trăm bảy mươi tư triệu sáu trăm nghìn đồng); Trần Đình T 578.881.000 đồng (năm trăm bảy tám triệu tám trăm tám mốt nghìn đồng).

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Các bị cáo Võ Oanh D, Trần Đình T, Hồng Quang T1 và Nguyễn Thị M không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

411
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 38/2022/HSPT

Số hiệu:38/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về