TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 355/2021/HS-ST NGÀY 09/11/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 09 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 393/2021/TLST- HS ngày 22 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 376/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Lương Hữu T, sinh năm 1989 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Minh T (đã chết) và bà Đinh Thị Đ; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Bản án số 86/2012/HSST ngày 16/8/2012 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt bị cáo Lương Hữu T 08 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng tính từ ngày tuyên án về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;
Bản án số 275/2019/HSST ngày 30/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 50.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc”; Bị bắt tạm giam từ ngày 08/11/2021 cho đến nay. Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bồ Minh T, sinh năm: 1977; nơi cư trú: khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
2. Nguyễn Duy H, sinh năm: 1985; nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang; tạm trú: tổ B khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Đoàn Phước S, sinh năm: 1991; nơi cư trú: ấp N, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú: tổ A, khu phố P, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.
4. Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1988; nơi cư trú: Ấp X, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
5. Võ Thanh T, sinh năm 1971; nơi cư trú: khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
6. Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Ấp A, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.
7. Trần Quang K, sinh năm 1986; nơi cư trú: Khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
8. Cao Khởi E, sinh năm 1981; nơi cư trú: Ấp T, xã A, thành phố C, tỉnh Cà Mau; tạm trú: khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
9. Huỳnh Văn H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang.
10. Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1975; nơi cư trú: khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
11. Võ Trọng K, sinh năm 1990; nơi cư trú: Ấp P, xã A, huyện T, tỉnh An Giang; tạm trú: khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
12. Nguyễn Văn H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Ấp N, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Nhà trọ T, tổ B, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
13. Trần Thanh N, sinh năm 1980; nơi cư trú: khu phố H, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
14. Nguyễn Văn T, sinh năm 1985; nơi cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Trần Thái T, sinh năm 1978; nơi cư trú: K khu phố A, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
16. Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang; tạm trú: khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
17. Võ Văn Q, sinh năm 1992; nơi cư trú: tổ C, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang; tạm trú: khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
18. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1979; nơi cư trú: Ấp C, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang.
Đều vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên Bồ Minh T và Lương Hữu T bàn bạc tổ chức cho những ngời đến đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc tài xỉu để thu tiền xâu tại bãi đất trống thuộc khu phố B, phường A, thành phố T. Bồ Minh T và Lương Hữu T quy định cứ 60 phút, người làm cái phải trả cho Bồ Minh T và Lương Hữu T 1.000.000 đồng. Nếu nhà cái bão, nhà cái thắng hết số tiền đặt cược thì trả 50% số tiền vừa thắng ván bão đó cho Bồ Minh T và Lương Hữu T. Bồ Minh T và Lương Hữu T thuê Đoàn Phước S, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Duy H mỗi người từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng/ngày để quản lý, thu tiền xâu, phục vụ việc mua đồ ăn, nước uống và cảnh giới.
Khoảng 12 giờ ngày 18/10/2019, Võ Thanh T đến sòng bạc nói trên làm cái lắc tài xỉu cho Trần Quang K, Trần Thái T, Võ Văn Q, Huỳnh Văn H, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Văn T, Võ Trọng K, Trần Thanh N, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H, Cao Khởi E và Bồ Minh T chơi, người chơi đặt từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng/1 ván. Đến khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc 1.200.000 đồng và trên người của các bị cáo là 88.700.000 đồng, 03 hột xí ngầu, 01 dĩa sứ đường kính 6cm màu trắng, 01 nắp nhựa hình trụ tròn đường kính 05 cm, 01 tấm khăn vải màu trắng, 01 tấm bạt màu xanh, 01 cân loại 05kg, 01 cuộn băng keo vải.
Quá trình điều tra xác định như sau:
1. Bồ Minh T: Tổ chức cho các đối tượng đánh bạc và sử dụng số tiền 4.600.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt bị thu giữ 4.600.000 đồng.
2. Đoàn Phước S: Thu tiền xâu được 11.100.000 đồng, đã đưa cho Tân 9.000.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 2.100.000 đồng.
3. Nguyễn Duy H: Thu tiền xâu được 350.000 đồng và đã đưa hết cho Sang.
4. Nguyễn Văn Đ: Thu tiền xâu, cảnh giới. Ngày 18/10/2019 chưa thu được tiền xâu, khi bị bắt bị thu giữ 50.000 đồng là tiền cá nhân không dùng đánh bạc.
5. Võ Thanh T: Mang theo 10.000.000 đồng để đánh bạc và làm cái lắc tài xỉu, quá trình chơi thua 450.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ giữ 9.550.000 đồng.
6. Trần Thái T: Mang theo 37.000.000 đồng để đánh bạc, quá trình chơi thua 4.500.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 32.500.000 đồng.
7. Cao Khởi E: Mang theo 10.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua 6.500.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 3.500.000 đồng.
8. Trần Quang K: Mang theo 8.500.000 đồng sử dụng đánh bạc, Kiệt khai thua đá gà 2.000.000 đồng, thua tài xỉu 1.000.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 5.500.000 đồng.
9. Nguyễn Văn T: Mang theo 8.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thắng 2.000.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 10.000.000 đồng.
10. Võ Trọng K: Mang theo 8.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua 500.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 7.500.000 đồng.
11. Trần Thanh N: Mang theo 3.600.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua 1.600.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 2.000.000 đồng.
12. Nguyễn Văn H: Mang theo 3.400.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua 100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 3.300.000 đồng.
13. Nguyễn Văn H: Mang theo 2.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thắng 3.200.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 5.200.000 đồng.
14. Nguyễn Ngọc T: Mang theo 1.900.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua 100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 1.800.000 đồng.
15. Võ Văn Q: Mang theo 1.200.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua 200.000 đồng, khi bị bắt bị tạm giữ 1.000.000 đồng.
16. Huỳnh Văn H: Mang theo 1.000.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi thua hết 1.000.000 đồng, khi bị bắt không bị thu giữ gì.
17. Nguyễn Thành Đ: Mang theo 400.000 đồng sử dụng đánh bạc, quá trình chơi đánh bạc thua 300.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 100.000 đồng.
Tổng số tiền thu giữ của các bị cáo là 89.900.000 đồng, trong đó 89.850.000 đồng sử dụng đánh bạc và tiền xâu được, 50.000 đồng không sử dụng đánh bạc.
Khi bắt quả tang, bị cáo Lương Hữu T trốn thoát. Đến ngày 06/5/2021, Lương Hữu T đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Cáo trạng số 393/CT-VKS -TA ngày 12/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo: Lương Hữu T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
- Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, theo đơn thì bị cáo không có ý kiến gì về nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt là tự nguyện, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên chấp nhận theo điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
[3] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 13 giờ 40 phút ngày 18/10/2019 trong lúc Bồ Minh T và Lương Hữu T đang tổ chức đánh bạc dưới hình thức lắc tài xỉu tại bãi đất trống thuộc khu phố B, phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương cho Võ Thanh T, Trần Quang K, Trần Thái T, Võ Văn Q, Huỳnh Văn H, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Văn T, Võ Trọng K, Trần Thanh N, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H, Cao Khởi E chơi thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Để phục vụ cho việc tổ chức đánh bạc, Bồ Minh T và Lương Hữu T thuê Đoàn Phước S, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Duy H quản lý, thu tiền xâu, phục vụ việc mua đồ ăn, nước uống và cảnh giới cho những người đánh bạc với tiền công từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng/ngày. Ngoài ra, Bồ Minh T và Lương Hữu T còn khai nhận đã tổ chức sòng bạc tại đây được 2 ngày, đến ngày thứ 3 thì bị bắt quả tang, tổng số tiền xâu thu được trong 3 ngày là 16.100.000 đồng (trong đó ngày 18/10/2019 thu được 11.100.000 đồng). Hành vi của bị cáo Lương Hữu T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy đã tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[5] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì tư lợi cá nhân, bị cáo cùng Tân chuẩn bị địa điểm, công cụ, phương tiện và thuê người khác phục vụ, cảnh giới, thu tiền xâu. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo từng bị Tòa án xử phạt về hành vi phạm tội, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp, do đó cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bỏ trốn, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm nên đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[8] Cần áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo nhằm đảm bảo tính răng đe.
[9] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[10] Đối với Bồ Minh T, Đoàn Phước S, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Duy H, Võ Thanh T, Trần Thái T, Võ Văn Q, Trần Thanh N, Trần Quang K, Huỳnh Văn H, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Văn T, Võ Trọng K, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H, Cao Khởi E, vật chứng trong vụ án đã được xử lý theo Bản án hình sự sơ thẩm số 146/2020/HS-ST ngày 08/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Điều 106; điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lương Hữu T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Lương Hữu T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/11/2021.
Phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.
2. Về án phí:
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 355/2021/HS-ST
Số hiệu: | 355/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về