Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 251/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 251/2020/HS-PT NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2020/TLPT-HS ngày 07 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Th cùng 08 bị cáo phạm tội "Tổ chức đánh bạc" và “Đánh bạc”do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 416/2019/HSST ngày 17 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1990; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Cụm 2, xã Hạ M, huyện Đan Ph, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa:12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Ngọc M1 và bà Nguyễn Thị Th; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ tư; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo ra đầu thú và hiện đang áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Văn Gi, sinh năm 1979 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Cụm 7, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 04/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Lê Văn Q và bà Nguyễn Thị T; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là thứ ba; có vợ là Hà Thị Ng và 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo ra đầu thú và hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Xuân C, sinh năm 1979 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Cụm 2, xã Hiệp Th1, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 05/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Xuân Th2 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là thứ hai; Có vợ là Nguyễn Thị Ph và 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 31/8/2009, được Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can về tội Cố ý gây thương tích.

- Ngày 31/1/2014, bị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.

Bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến ngày 21/8/2019. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo vắng mặt (có đơn xin hoãn phiên tòa).

4. Họ và tên: Nguyễn Khắc M2, sinh năm 1987 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Cụm 5, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Khắc T1 và bà Đinh Thị H; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất; Có vợ là Nguyễn Thị Mai Ph1 và 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

* Nhân thân: Năm 2016, bị Công an huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến ngày 21/8/2019. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Hà Văn H, sinh năm 1981 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Cụm 3, xã Long Xuyên, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Hà Văn S và bà Nguyễn Thị T2; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ nhất; Có vợ là Vũ Thị H2 và 03 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên: Nguyễn Khắc H3, sinh năm 1991 tại tỉnh Nghệ An; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Xóm Phương Đông, xã Giang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Khắc H4 và bà Nguyễn Thị T; Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là thứ tư; Có vợ là Nguyễn Thị Nh, Con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú;bị cáo vắng mặt, có đơn xin hoãn phiên tòa.

7. Họ và tên: Nguyễn Khắc H1, sinh năm 1975 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Cụm 3, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Khắc Ch và bà Đinh Thị Ch1; Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là thứ bảy; Có vợ là Nguyễn Thị Gi và 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8. Họ và tên: Nguyễn Thị T3, sinh năm 1982 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nữ; Nơi ĐKHKTT: Thôn 7, xã Trung Châu, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Cảnh T4 và bà Trần Thị Đất; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ nhất; Có chồng là Nguyễn Văn L1 và 03 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 22/3/2019. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

9. Họ và tên: Nguyễn Duy V, sinh năm 1983 tại thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Thôn Cấn Hạ, xã Cấn Hữu, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Tham gia Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Nguyễn Ngọc H5 và bà Bùi Thị Th1; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ ba; Có vợ là Nguyễn Thị Thanh Th2 và 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa. (Ngoài ra, vụ án này còn có 08 bị cáo khác là: Phạm Văn T5, Nguyễn Hồng Th2, Nguyễn Khắc Th3, Phạm Như Th4, Trần Ngọc S1, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị H5, Nguyễn Thị T6 không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 13/3/2019, tổ công tác thuộc phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hà Nội phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Hồng Th2 cùng các đồng phạm đang có hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa ăn tiền tại khu vực bờ kè sông Hồng thuộc cụm 8, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Các đối tượngbị bắt giữ gồm: Nguyễn Hồng Th2 (sinh năm 1985; trú tại cụm 7, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Nguyễn Khắc Th3 (sinh năm 1982; trú tại đội 1, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Đặng Ngọc Khải (sinh năm 1969; trú tại xóm 3, xã Hải Vân, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định); Nguyễn Xuân C (sinh năm 1979; trú tại cụm 2, xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, Hà Nội); Nguyễn Khắc M2 (sinh năm 1987; trú tại cụm 5, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Nguyễn Thị H2 (sinh năm 1991; trú tại khu 12, xã Lương Lỗ, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ); Nguyễn Thị H5 (sinh năm 1981; trú tại thôn Kiều Lương, xã Đức Long, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh); Nguyễn Thị T6 (sinh năm 1987; trú tại tổ dân phố Hạ 9, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội); Hà Văn H1 (sinh năm 1981; trú tại cụm 3, xã Long Xuyên, huyện Phúc Thọ, Hà Nội); Nguyễn Khắc Hùng (sinh năm 1975; trú tại cụm 3, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Nguyễn Duy V (sinh năm 1983; trú tại xã Cấn Hữu, huyện Quốc Oai, Hà Nội); Nguyễn Thị T3 (sinh năm 1982; trú tại thôn 7, xã Trung Châu, huyện Đan Phượng, Hà Nội) và Nguyễn Khắc H3 (sinh năm 1991; trú tại xã Giang Sơn Đông, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An). Vật chứng thu giữ tại đám bạc gồm: 73.900.000 đồng (trong đó thu tại chiếu bạc là 62.800.000 đồng, thu trên người các đối tượng đánh bạc là 11.100.000 đồng cùng 01 bat sứ, 01 đia sứ, 04 quân vi, 01 thảm, 01 bảng vị, 01 bộ đục quân vị, 01 khúc gỗ, 01 búa, 20 quân bài chắn, 04 quân bài tú lơ khơ, 03 cuốn sổ, 01 túi chun vòng, 07 điện thoại di động và 01 bộ đàm. Qua điều tra xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã điều tra, làm rõ các đối tượng Phạm Văn T5 (sinh năm 1983; trú tại cụm 8, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội) cùng Lê Hữu T7 (sinh năm 1983; trú tại cụm 1, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Nguyễn Ngọc Th (sinh năm 1990; trú tại cụm 2, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Thiều Quang Đ (sinh năm 1979; trú tại thôn 11, xã Trung Châu, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Lê Văn Giang (sinh năm 1979; trú tại cụm 7, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội); Phạm Như Th4 (sinh năm 1971; trú tại cụm 6, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội) và Trần Ngọc Sơn (sinh năm 1984; trú tại cụm 7, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội) có hành vi tổ chức đánh bạc. Cụ thể như sau:

Khoảng thời gian tháng 08 năm 2018, Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7cùng bàn bạc đứng ra tổ chức đánh bạc dưới hình thức đánh xóc đĩa ăn tiền nhằm mục đích thu lợi bất chính. Để tránh việc bị phát hiện bắt giữ, các đối tượng tìm chọn những địa điểm tại khu vực bãi bồi ven sông Hồng, khu vực trồng các loại cây ăn quả thuộc địa bàn các xã Hồng Hà, xã Thượng M, xã Hạ M thuộc huyện Đan Phượng, Hà Nội;không thông báo trước địa điểm tổ chức đánh bạc, hẹn các con bạc đến nhiều địa điểm khác nhau sau đó bố trí, phân công các đối tượng người người địa phương thông thuộc địa hình, sử dụng xe máy để đưa đón các con bạc; dùng bộ đàm để liên lạc và bố trí người canh gác cảnh giới tại khu vực tổ chức sới bạc. Hàng ngày, sới bạc tổ chức 02 ca đánh bạc, gồm Ca 1: Từ 11h00 đến 12h30 phút; Ca 2: Từ 15h30 phút đến 17h30 phút; thu tiền phế 500.000 đồng/01 người/01 ca đánh bạc. Trong đó, Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7 có nhiệm vụ mời gọi khách đến tham gia đánh bạc, chuẩn bị bát đĩa, quân vị và dụng cụ khác cho các đối tượng tham gia đánh bạc. Để sới bạc hoạt động, Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7 thuê và phân công Nguyễn Ngọc Th và Thiều Quang Đ thay nhau làm người xóc cái, hồ lỳ, thu phế tại sới bạc; Doãn Thành Biên làm hồ lỳ cùng Th và Đ khi khách đánh bạc yêu cầu có thêm người giam tiền tại sới bạc. Th, Đ và Biên không được Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7 trả công mà được hưởng tiền do các con bạc cho trong quá trình tham gia đánh bạc. Ngoài ra, Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7 còn phân công Nguyễn Hồng Th2 tìm và thuê người tìm địa điểm tổ chức đánh bạc, chuyên chở các con bạc đến địa điểm đánh bạc, canh gác bảo vệ khi sới bạc hoạt động; đồng thời Th2 có trách nhiệm quản lý tiền cho vay, tiền phế; khi tan ca đánh bạc thì giao lại cho Phạm Văn T5 hoặc Lê Hữu T7 để ăn chia, hưởng lợi; thỏa thuận trả công cho Th2 500.000 đồng/01 ca. Được sự phân công của Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7, Th2 đã thuê các đối tượng gồm: Nguyễn Khắc T7 tìm địa điểm tổ chức đánh bạc tại các xã Thượng M, xã Hạ M, huyện Đan Phượng, Hà Nội; Nguyễn Khắc Th3 tìm địa điểm và đưa đón các con bạc; Phạm Như Th4 tìm địa điểm tổ chức đánh bạc tại xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội; Lê Văn Gi và Trần Ngọc S1 làm nhiệm vụ đưa đón khách đến sới bạc, canh gác, cảnh giới. Th2 thỏa thuận trả công cho các đối tượng trên 300.000 đồng/01 người/01 ca đánh bạc và phát cho mỗi đối tượng 01 bộ đàm để thông tin, liên lạc trong quá trình tổ chức đánh bạc. Ngoài ra, từ ngày 05/10/2018 đến ngày 07/10/2018 và từ ngày 10/02/2019 đến ngày 28/02/2019, Phạm Văn T7 và Lê Hữu T7 còn thống nhất cùng nhau góp tiền, giao cho Phạm Hồng Th2 quản lý cho các con bạc vay tiền lấy lãi để tham gia đánh bạc với thỏa thuận vay 10.000.000 đồng cắt từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng, hoàn trả tiền gốc sau 02 ngày.

Về phương thức đánh bạc dưới hình thức chơi xóc đĩa ăn tiền được thực hiện như sau: Dụng cụ dùng để đánh bạc xóc đĩa gồm: 01 bát , 01 đĩa và 04 quân vị hình tròn có đường kính khoảng 1,5cm, được cắt bằng cây bài chắn, phân biệt bởi 02 màu trắng đen. Các cửa đặt cược gồm cửa lẻ và cửa chẵn; tỷ lệ thắng thua là 1 ăn 1. Cược bảng vị 04 cửa gồm cửa 03 trắng 01 thâm và 03 thâm 01 trắng, tỷ lệ thắng thua là 1 ăn 3 lần; cửa 04 thâm, 04 trắng tỷ lệ thắng thua là 1 ăn gấp 10 lần. Cách thức đánh xóc đĩa: Người xóc ngồi ở vị trí giữa của chiếu bạc, các con bạc ngồi hai bên: Bên tay phải người xóc cái được quy ước là cửa chẵn, bên tay trái của người xóc cái là cửa lẻ. Khi đánh bạc đối tượng xóc cái cho 04 quân vị vào đĩa sau đó úp bát vào, dùng hai tay đưa lên xóc đều các quân vị, sau đó đặt xuống chiếu bạc để các con bạc đặt tiền đánh bạc theo các cửa chẵn hoặc lẻ tuỳ ý. Việc đặt tiền đánh bạc trong mỗi ván bạc không hạn chế. Khi mở bát, nếu quân vị ra chẵn (có hai mặt thâm, hai mặt trắng hoặc bốn mặt thâm, bốn mặt trắng) thì người đặt tiền ở cửa chẵn thắng, người đặt tiền ở cửa lẻ thua. Nếu quân vị ra lẻ (ba mặt thâm một mặt trắng, ba mặt trắng một mặt thâm) thì người đặt tiền ở cửa lẻ thắng, người đặt tiền ở cửa chẵn thua.

1. Đối với hành vi tổ chức đánh bạc 1.1. Nguyễn Ngọc Th: Từ đầu năm 2019 đến ngày 13/3/2019 được Phạm Văn T5 và Lê Hữu T7 thuê làm nhiệm vụ xóc cái cho các đối tượng tham gia đánh bạc. Tổng cộng Th được hưởng lợi khoảng 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

1.2. Lê Văn Gi: Từ đầu tháng 02/2019 đến ngày 13/3/2019được Nguyễn Hồng Th2 thuê, trả công 300.000 đồng/01 ca để đưa đón khách đánh bạc, canh gác, cảnh giới tại sới bạc. Th2 phát cho Gi 01 bộ đàm để liên lạc khi sới bạc hoạt động. Tổng cộng Gi được hưởng lợi khoảng 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

2. Đối với hành vi đánh bạc:

2.1. Nguyễn Xuân C: Tham gia đánh bạc 04 lần. Cụ thể:

- Lần 1: Khoảng đầu tháng 02/2019, C mang theo 5.000.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc, thua hết tiền thì ra về.

- Lần 2: Khoảng buổi ngày 08/3/2019, C đến sới tham gia đánh bạc, không nhớ rõ mang đi bao nhiêu tiền. Tan ca đánh bạc, C thắng bạc đã cho Nguyễn Ngọc Th (người xóc cái) số tiền 1.000.000 đồng.

- Lần 3: Ngày 10/3/2019, C mang theo 5.000.000 đồng, chưa phải nộp phế, tham gia đánh nhiều ván bạc, thua hết tiền thì ra về.

- Lần 4: Khoảng 15h20 phút ngày 13/3/2019, C mang theo 5.000.000 đồng, được Phạm Như Th4 đưa vào sới bạc. Vào sới, C nộp phế 500.000 đồng cho Thiều Quang Đ, ngồi bên cửa lẻ và tham gia đánh bạc nhiều ván bạc. Trong đó, có ván cuối, cược 4.500.000 đồng, cửa chẵn, bị thua thì bị bắt quả tang.

2.2. Nguyễn Khắc M2: M2 đến sới bạc nhiều lần để tham gia đánh bạc.

Trong đó:

- Khoảng cuối tháng 02/2019, M2 đến tham gia đánh bạc, không nhớ cụ thể mang theo bao nhiều tiền. Tan ca đánh bạc, M2 thắng bạc và cho Nguyễn Ngọc Th (xóc cái) số tiền 200.000 đồng.

- Sáng ngày 13/3/2019, M2 mang theo 7.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc, tan sới thua hết tiền.

- Chiều ngày 13/3/2019, M2 mang theo 5.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng cho Thiều Quang Đ, tham gia đánh 04 ván bạc, mỗi ván đánh từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng 03 ván cửa lẻ, 01 ván cửa chẵn, đều bị thua thì bị bắt quả tang.

2.3. Hà Văn H1: Tham gia đánh bạc 02 lần. Cụ thể:

- Lần 1: Sáng ngày 13/3/2019, H1 mang theo 8.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng cho Thiều Quang Đ, tham gia đánh nhiều ván bạc, thua hết tiền thì ra về.

- Lần 2: Khoảng 15h30 phút ngày 13/3/2019, H1 mang theo 12.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng cho Đ, ngồi bên cửa lẻ, tham gia đánh nhiều ván bạc. Trong đó, ván cuối đánh 5.000.000 đồng cửa lẻ bị thua thì bị bắt quả tang.

2.4. Nguyễn Khắc H3: H3 tham gia đánh bạc 03 lần đều được Lê Văn Gi đón đưa vào sới bạc. Cụ thể:

- Lần 1: Sáng ngày 10/3/2019, H3 mang theo 6.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc, bị thua hết tiền thì ra về.

- Lần 2: Sáng ngày 13/3/2019, H3 mang theo 7.000.000 đồng, nộp phế hết 500.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc. Tan sới thắng được 2.500.000 đồng.

- Lần 3: Chiều ngày 13/3/2019, H3 mang theo 5.500.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng và tham gia đánh 04 ván bạc: Ván 1 đánh cửa lẻ 500.000 đồng, 03 ván đánh cửa chẵn mỗi ván đánh từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, 04 ván đều thua, thì bị bắt quả tang.

2.5. Nguyễn Khắc H6: Tham gia đánh bạc 03 lần. Cụ thể:

- Lần 1: Vào khoảng tháng 02/2019, H6 mang theo 6.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc, bị thua hết tiền thì ra về.

- Lần 2: Ngày 09/3/2019, H6 mang theo 3.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc, bị thua hết tiền thì ra về.

- Lần 3: Chiều ngày 13/3/2019, H6 mang theo 4.500.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng cho Thiều Quang Đ, tham gia đánh 02 ván bạc cửa chẵn, mỗi ván đánh từ 300.000 đồng đến 1.000.000 đồng đều bị thua thì bị bắt quả tang.

2.6. Nguyễn Thị T3: Tham gia đánh bạc 04 lần. Cụ thể:

- Lần 1: Ngày 17/02/2019, T3 vào sới tham gia đánh bạc, vay của Nguyễn Hồng Th2 số tiền 10.000.000 đồng. Th2 cắt lãi 500.000 đồng và đưa lại cho T3 9.500.000 đồng. T3 sử dụng số tiền trên để tham gia đánh bạc, thua hết tiền thì ra về, không nhớ cụ thể từng ván.

- Lần 2: Ngày 18/02/2019, T3 vào sới tham gia đánh bạc, vay của Nguyễn Hồng Th2 số tiền 20.000.000 đồng. Th2 cắt lãi 1.000.000 đồng và đưa lại cho T3 19.000.000 đồng. T3 sử dụng số tiền trên để tham gia đánh bạc, bị thua hết tiền thì ra về, không nhớ cụ thể từng ván.

- Lần 3: Khoảng 16h00 ngày 10/3/2019, T3 mang theo 2.000.000 đồng đến đánh bạc, nộp phế 500.000 đồng, tham gia đánh nhiều ván bạc, bị thua hết tiền thì ra về.

- Lần 4: Khoảng 16h15 phút ngày 13/3/2019, T3 mang theo 1.000.000 đồng, tham gia đánh 02 ván bạc cửa lẻ, mỗi ván đánh 500.000 đồng đều bị thua, chưa phải nộp phế thì bị bắt quả tang.

2.7. Nguyễn Duy V: Tham gia đánh bạc 02 lần. Cụ thể:

- Lần 1: Ngày 12/3/2019, V mang theo 3.000.000 đồng, nộp phế 500.000 đồng, tham gia nhiều ván bạc, tan sới thắng 3.000.000 đồng.

- Lần 2: Chiều ngày 13/3/2019, V mang theo 3.200.000 đồng, được Lê Văn Gi đón đưa từ cây xăng Tiên Tân, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội vào sới tham gia đánh bạc. V nộp phế 500.000 đồng, tham gia đánh bạc 02 ván bạc cửa lẻ, mỗi ván đánh từ 500.000 đồng đến 1.200.000 đồng, ván thắng, ván thua thì bị bắt quả tang.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số416/2019/HSST ngày 17 tháng 12 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố:Các bị cáo Nguyễn Ngọc Th và Lê Văn Gi phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Các bị cáo Nguyễn Xuân C, Nguyễn Khắc M2, Hà Văn H1, Nguyễn Khắc H3, Nguyễn Khắc H6, Nguyễn Thị T3 vàNguyễn Duy V phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng điểm a,c,d khoản 1 Điều 322;các điểm r,s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt Nguyễn Ngọc Th 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt Lê Văn Gi 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; các điểm r,s khoản 1,2 Điều 51; các điểm g,h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt Nguyễn Xuân C từ 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gianđã bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 21/8/2019.

Xử phạt Nguyễn Thị T3 30 (ba mươi) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 22/3/2019.

Xử phạt Nguyễn Khắc H3 30 (ba mươi) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

Xử phạt Nguyễn Khắc H6 24 (hai mươi tư) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

Xử phạt Nguyễn Khắc M2 24 (hai mươi tư) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 21/8/2019.

Xử phạt Hà Văn H6 20 (hai mươi) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gianđã bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

Xử phạt Nguyễn Duy V 15 (mười lăm) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

Truy nộp tiền thu lời bất chính đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Th 10.000.000 đồng (mười triệu đồng chẵn); đối với bị cáo Lê Văn Gi 8.000.000 đồng (tám triệu đồng chẵn) sung quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 19/12/2019 bị cáo Hà Văn H1 và Nguyễn Khắc H3 có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 23/12/2019, bị cáo Nguyễn Duy V có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 27/12/2019, các bị cáo Nguyễn Ngọc Th, Nguyễn Khắc M2, Lê Văn Gi, Nguyễn Xuân C và Nguyễn Thị T3 có đơn kháng cáo với nội dungxin được hưởng án treo.

Ngày 30/12/2019, bị cáo Nguyễn Khắc H6 kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết về hành vi phạm tội của các bị cáo. Tất cả các bị cáo đều không có ý kiến gì khác mà chỉ đề nghị xin được khoan hồng giảm nhẹ như nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi kiểm tra tính có căn cứ pháp luật của bản án sơ thẩm thì đã khẳng định: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá khách quan đúng về hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên, xét hành vi phạm tội đánh bạc của các bị cáo có mức độ, các bị cáo là nhân dân lao động thuần túy, không phải là đối tượng nguy hiểm; sau khi vụ án bị phát hiện thì đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo còn tự khai ra hành vi đánh bạc của các bị cáo trước đó. Mặc dù các bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo vì các bị cáo tham gia đánh bạc 02 lần trở lên, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt tù (kể cả những bị cáo vắng mặt tại phiên tòa) thì vẫn phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo và vẫn đảm bảo tính răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định như sau:

- Về tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, tuy vắng mặt hai bị cáo C và H3, nhưng xét Tòa án đã triệu tập hợp lệ, các bị cáo thì chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ, xin hưởng án treo; đại diện Viện kiểm sát đồng ý tiến hành xét xử bình thường. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử.

- Về nội dung:Tại phiên tòa phúc thẩm thì trừ 02 bị cáo vắng mặt là Nguyễn Xuân C và Nguyễn Khắc H3, còn lại tất cả các bị cáo có đơn kháng cáo và có mặt tại phiên tòa, gồm: Nguyễn Ngọc Th, Lê Văn Gi, Nguyễn Khắc M2, Nguyễn Khắc H6, Hà Văn H1, Nguyễn Thị T3 và Nguyễn Duy V đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết về hành vi phạm tội của các bị cáo. Các bị cáo không có ý kiến gì khác ngoài nội dung đã kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt tù và xin được hưởng án treo. Như vậy, đã có đủ căn cứ khẳng định: Trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 2018 đến ngày 13/3/2019, các bị cáo Nguyễn Ngọc Th, Lê Văn Gi đã có hành vi đồng phạm cùng với các bị cáo khác tổ chức đánh bạc, cụ thể: Đồng phạm với các bị cáo Phạm Văn T5, Lê Hữu T7 tổ chức đánh bạc cho nhiều đối tượng tham gia đánh bạc; còn các bị cáo Nguyễn Xuân C, Nguyễn Khắc M2, Hà Văn H1, Nguyễn Khắc H3, Nguyễn Khắc H6, Nguyễn Thị T3 và Nguyễn Duy V tham gia đánh bạc; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án các bị cáo Nguyễn Ngọc Th, Lê Văn Gi về tội tổ chức đánh bạc; còn các bị cáo kháng cáo còn lại đều về tội đánh bạc là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Các bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù và xin hưởng án treo của các bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Trong vụ án này, các bị cáo hầu hết là người cùng địa phương với nhau vàđều là nhân dân lao động nhất thời phạm tội; hơn nữa, sau khi phạm tội thì thành khẩn khai báo và còn tự thú khai ra lần đánh bạc trước đó trong khi chưa bị phát hiện, các bị cáo đều đã tỏ ra ăn năn, hối cải, có công ăn việc làm và nơi ở ổn định. Do các bị cáo tổ chức đánh bạc và đã tham gia đánh bạc nhiều lần (có bị cáo đánh 02 lần, có bị cáo đánh 3-4 lần, có bị cáo đánh đến 6 lần), nên Tòa án cấp sơ thẩm không cho bị cáo nào được cải tạo tại địa phương là đúng pháp luật và là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Trong vụ án này thì gia đình bị cáo Hà Văn H1 là gia đình có công với cách mạng, ông nội là liệt sỹ, bị cáo có công cứu người bị đuối nước; bị cáo Nguyễn Khắc M2 là người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, tại địa phương bị cáo đã đuổi bắt được tội phạm giao cho chính quyền địa phương xử lý, bị cáo có ông bà ngoại được nhà nước tặng thưởng huân huy chương; bị cáo Nguyễn Xuân C có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, vì bố là thương binh già yếu lại có anh trai bị bệnh tâm thần; bị cáo Nguyễn Khắc H6 thì có bố bị tai biến nằm một chỗ từ rất lâu; bị cáo Nguyễn Khắc H3 có hoàn cảnh gia đình rất khó khăn và có bố từng tham gia quân đội tại chiến trường Campuchia; bị cáo Nguyễn Duy V đứng sau cùng vụ án, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bản thân bị cáo đã từng được Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên tặng Bằng khen vì đã có thành tích trong dịp Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên phủ; bị cáo Nguyễn Thị T3 là nữ trong vụ án và đang nuôi con nhỏ; còn đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Th và Lê Văn Gi thì là người làm thuê cho bị cáo Phạm Văn T5 và cả hai bị cáo đều chưa có tiền án-tiền sự, bị cáo Th có thời gian tham gia quân đội, còn gia đình bị cáo Gi là gia đình có công với cách mạng. Vì vậy, cần mở lượng khoan hồng của pháp luật về chính sách xử lý các đối tượng phạm tội đã tỏ ra ăn năn hối hận về hành vi trái pháp luật của mình, để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt tù, giúp cho các bị cáo yên tâm cải tạo để sớm được trở về với gia đình và xã hội, kể cả hai bị cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội cũng đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo đểgiảm nhẹ cho tất cả các bị cáo có đơn kháng cáo (kể cả bị cáo vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm)một phần hình phạt tù, nhưng không cho các bị cáo được hưởng án treo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ được chấp nhận giảm nhẹ nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 355, 357 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù của các bị cáo (kể cả các bị cáo vắng mặt), sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 416/2019/HSST ngày 17/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về phần hình phạt tù đối với các bị cáo. Nay tuyên:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Ngọc Th, Lê Văn Gi phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; các bị cáo Nguyễn Xuân C, Nguyễn Khắc M2, Hà Văn H1, Nguyễn Khắc H3, Nguyễn Khắc H6, Nguyễn Thị T3 và Nguyễn Duy V phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng các điểm a, c, d khoản 1 Điều 322; các điểm r, s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Ngọc Th 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

- Bị cáo Lê Văn Gi 27 (hai bảy) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; các điểm r, s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Xuân C 27 (hai bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 21/8/2019.

- Bị cáo Nguyễn Thị T3 24 (hai tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 22/3/2019.

- Bị cáo Nguyễn Khắc H3 27 (hai bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

- Bị cáo Nguyễn Khắc H6 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

- Bị cáo Nguyễn Khắc M2 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 21/8/2019.

- Bị cáo Hà Văn H6 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

- Bị cáo Nguyễn Duy V 9 (chín) tháng tù. Thời hạnchấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 13/3/2019 đến ngày 10/5/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (29/5/2020). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 251/2020/HS-PT

Số hiệu:251/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về