TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 39/2024/HS-PT NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC, CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý Số 20/2024/TLPT-HS ngày 06/02/2024 đối với bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr cùng đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2023/HS-ST ngày 28/12/2023 của Toà án nhân dân thành phố Đ.
* Bị cáo kháng cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Kh1 Tr, sinh năm: 1971, tại: Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 7, thị trấn C, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Số 49/18 P, phường 10, thành phố Đ, tỉnh Đ; trình độ học vấn:
7/12; nghề nghiệp: Thợ xây dựng; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Th Ch (đã chết) và bà: Hạ Thị T; vợ: Nguyễn Thị T; có 02 con, lớn nhất sinh năm: 1993, nhỏ nhất sinh năm:
1994; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 16/01/2022, hiện nay bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, tỉnh Đ. Có mặt.
2. Họ và tên: Lê Văn Th, sinh năm: 1988, tại: Thanh Hóa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Đức Trọng, tỉnh Đ; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Làm vườn; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Lê Văn Tr và bà: Lưu Thị T; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 16/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, tỉnh Đ. Có mặt
3. Họ và tên: Trương Ph, sinh năm: 1984, tại: H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã H, huyện Hương Trà, tỉnh H; nơi cư trú: 96/1 HV, Phường 11, Th phố Đ, tỉnh Đ; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Trương Duy và bà: Lê Thị Thúy; vợ: Đàm Thị Hoài; có 02 người con, lớn nhất sinh năm: 2009, nhỏ nhất sinh năm: 2010; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 16/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, tỉnh Đ. Có mặt.
4. Họ và tên: Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1988, tại: Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn T, xã H, huyện Đức Trọng, tỉnh Đ; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Văn C và bà: Trnh Thị Tr; vợ: Nguyễn Thị K2 Ph; có 01 con sinh năm: 2020; tiền án, tiền sự: Không.
Nh thân: Tại bản án số 34/2012/HSST ngày 11/5/2012, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Đ xử phạt 12 (mười hai) tháng tù treo, thời gian thử thách 22 tháng, về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; đã chấp hành xong bản án.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 16/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, tỉnh Đ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Quán Karaoke KTC ở số 03 đường H Vương, Phường 10, thành phố Đ, tỉnh Đ, do bà Vũ Thị Ng B, sinh năm: 1975, nơi thường trú: 48 Hàng Bài, Phường Hàng Bài, Quận Hoàn Kiếm, thành phố Đà Lạt, làm chủ và thuê ông Hồ Tuấn An, sinh năm: 1984; nơi đăng ký HKTT: 03 H Vương, Phường 10, thành phố Đ, Đ đứng tên giấy phép kinh doanh. Sau đó, bà B đã thuê Nguyễn Kh1 Tr đứng ra quản lý quán karaoke KTC và thuê Lương Trọng T làm nhân viên thu ngân của quán và các nhân viên khác.
Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 16/01/2022, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đ phối hợp với Công an thành phố Đ tiến hành kiểm tra hành chính quán Karaoke KTC. Quá trình kiểm tra, đã phát hiện có nhiều khách ở 03 (ba) phòng hát Vip 202, Vip 203 và Vip 206 ở tầng một của quán đang có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và bắt quả tang Lương Trọng T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với các đối tượng trong 03 phòng hát nêu trên. Quá trình điều tra đến nay, xác định cụ thể hành vi phạm tội của các bị can như sau:
1. Tại phòng Vip 202 của quán Karaoke KTC: Vào tối ngày 15/01/2022, Nguyễn Văn Tr H2, Nguyễn Văn Tr T, Nguyễn Võ Nguyễn Tú H, Ngô Đức Thanh L, Nguyễn Thị Cẩm T, Nguyễn Thị M K, Huỳnh Thị A, Phùng Thị Mai Th cùng đi uống rượu, nghe nhạc tại quán bar V-Club trên đường Lê Đại Hành, Phường 1, thành phố Đ. Ngồi một lúc thì Nguyễn Văn Tr H2 đi về trước. Đến khoảng 23h00 cùng ngày, sau khi nghe nhạc xong thì H1 hỏi những người nữ trong nhóm “có chỗ nào chơi đồ không” (cả nhóm đều hiểu là sử dụng ma túy), nghe H1 nói xong thì K2 nói “đến quán karaoke KTC em quen và có ma túy để chơi” thì H1 cùng tất cả mọi người đều đồng ý. Sau đó cả nhóm đi xe taxi đến quán karaoke KTC, cùng thời điểm này thì K2 lấy điện thoại của A, đăng nhập zalo của A để nhắn tin cho Lương Trọng T là nhân viên thu ngân của quán để đặt phòng Vip 202 và đặt mua nửa hộp 5 ketamine cùng 04 viên thuốc lắc với giá 4.700.000 đồng. Khi đến quán Karaoke, K2 vào quán gặp T để lấy phòng và dặn T đem ma túy lên phòng 202. Sau đó, K2 ra xe gặp H1 để lấy số tiền 4.700.000 đồng và vào trả tiền mua ma túy cho T (số tiền mua ma túy H1, L, T và H2 thống nhất chia đều sau khi sử dụng xong). Khi cả nhóm vào phòng Vip 202 được khoảng 5 phút thì T vào phòng đặt trên bàn 01 gói giấy vệ sinh rồi đi ra, K2 mở gói giấy ra bên trong có số ma túy mà K2 đặt mua của T trước đó. Sau khi có ma túy thì T sử dụng nửa viên ma túy thuốc lắc và đưa nửa viên còn lại cho T2 sử dụng, L sử dụng nửa viên ma túy thuốc lắc và đưa nửa viên còn lại cho Th sử dụng, H2 sử dụng nửa viên ma túy thuốc lắc và đưa nửa viên còn lại cho A sử dụng, H1 sử dụng nửa viên ma túy thuốc lắc do ai đưa không rõ, K2 thì tự lấy nửa viên ma túy thuốc lắc còn lại sử dụng. Trong lúc cả nhóm đang sử dụng ma túy thuốc lắc thì H2 sử dụng thẻ nhựa có sẵn trong quán xào ma túy Ketamine thành nhiều đường mảnh trên đĩa sứ, đồng thời T2 lấy trong ví của mình ra tờ tiền mệnh giá 10.000đ và quấn thành ống hút để sử dụng hít ma túy Ketamine mà H2 đã phân chia. Sau khi H2 phân ma túy xong thì T tự sử dụng hai đường, H2 tự sử dụng 02 đường, H1 tự sử dụng 01 đường, L tự sử dụng 02 đường, T2 được H2 đưa chiếc đĩa có ma túy và cầm ống hút sử dụng 01 đường, A được H2 đưa chiếc đĩa có ma túy và cầm ống hút sử dụng 01 đường, Th được H2 đưa chiếc đĩa có ma túy để sử dụng nhưng Th không sử dụng, K2 sử dụng một đường. Trong lúc cả nhóm đang nghe nhạc và sử dụng ma túy thì bị Công an tỉnh Đ kiểm tra, qua test nhanh cả 08 đối tượng đều dương tính với ma túy Ketamine và MDMA.
Quá trình bắt quả tang phát hiện: trên bàn phía trong hướng từ cửa phòng vào có 01 (một) đĩa sứ màu trắng kích thước khoảng 25cm x 25cm, trên đĩa có 01 ống hút bằng tờ tiền 10.000đ có dính chất bột màu trắng nghi là ma túy, trong đĩa có chất bột dạng tinh thể màu trắng nghi là ma túy; ngoài ra trên bàn còn có một bịch nylon kích thước khoảng 3cm x 3cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Căn cứ lời khai nhận của các đối tượng, tổ công tác tiến hành lập biên bản Bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn Tr T, Nguyễn HVõ Nguyễn Tú H, Ngô Đức Thanh L, Nguyễn Thị Cẩm T và Nguyễn Thị M K (BL: 779-788; 810-819; 915- 929; 933-947; 951-965; 969- 983; 990-1004; 1005-1019; 1035-1048; 1290-1308).
Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ khi bắt quả tang:
+ 01 gói nylon được hàn kín, kích thước 03cm x 03cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, thu giữ tại chiếc bàn trong phòng 202 được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 01;
+ 01 gói nylon được hàn kín, kích thước 10cm x 06cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy được thu gom trong chiếc đĩa sứ được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 02;
+ 01 thẻ nhựa kích thước 8cm x 5cm được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 03;
+ 01 đoạn ống hút được quấn bằng tờ tiền Polime 10.000 đồng, mỗi đầu được quấn bằng vỏ đầu lọc thuốc lá được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 04;
+ 01 chiếc đĩa sứ có dính chất bột nghi là ma túy được dán giấy niêm phong ký hiệu số 05;
- Tạm giữ của Võ Nguyễn Tú H:
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max, màu vàng, bên trong có gắn sim số: 0904.455.772; số tiền 8.155.000 đồng (tám triệu một trăm năm mươi lăm nghìn đồng);
+ 01 giấy chứng minh nhân dân số 28545146 mang tên Võ Nguyễn Tú H;
01 đăng ký xe biển số 72K9 - 2217 mang tên Võ Nguyễn Tú H; 01 (một) giấy phép lái xe số 790152156828, hạng B2 mang tên Võ Nguyễn Tú H; 02 (hai) thẻ ATM ngân hàng MB Bank, mang tên “Vo Nguyen Tu Hoa”; 01 (một) căn cước công dân số 07004500xxxx mang tên Võ Nguyễn Tú H. Ngày 23/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã xử lý đồ vật tài liệu trả lại số giấy tờ trên cho Võ Nguyễn Tú H - Tạm giữ của Ngô Đức Thanh L:
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0974.573.375; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng, bên trong có gắn sim số 0869.039.xxx; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max, màu xanh, đã qua sử dụng; 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng);
+ 01 bóp da màu nâu; 01 chứng nhận tập huấn nghiệp vụ xe kinh doanh vận tải mang tên Ngô Đức Thanh L; 01 giấy phép lái xe hạng D mang tên Ngô Đức Thanh L; 01 căn cước công dân số 075090000278 mang tên Ngô Đức Thanh L. Ngày 23/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã xử lý đồ vật tài liệu trả lại bóp da và số giấy tờ trên cho Ngô Đức Thanh L;
- Tạm giữ của Nguyễn Văn Tr T:
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max, màu vàng, bên trong có gắn sim số: 0971.333.467; số tiền 610.000 đồng (sáu trăm mười nghìn đồng);
+ 01 thẻ sinh viên trường đại học Công nghệ TP HCM Hutech mang tên Nguyễn Văn Tr T; 01 chứng minh nhân dân số 273690336 mang tên Nguyễn Văn Tr T. Ngày 23/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã xử lý đồ vật tài liệu trả lại số giấy tờ trên cho Nguyễn Văn Tr T;
- Tạm giữ của Nguyễn H2:
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Pro Max, màu trắng, bên trong có gắn sim số: 0785.685.xxx; số tiền 2.200.000 đồng (hai triệu hai trăm nghìn đồng);
+ 01 giấy phép lái xe hạng A1, mang tên Nguyễn H2; 01 đăng ký xe biển số 72F1-xxxxx mang tên Nguyễn H2; 01 căn cước công dân số 07709400xxxx. Ngày 23/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã xử lý đồ vật tài liệu trả lại số giấy tờ trên cho Nguyễn H2;
- Tạm giữ của Nguyễn Thị Cẩm T: 01 điện thoại di dộng hiệu Oppo, màu đỏ, đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số: 0967.393.494; Số tiền 13.200.000 đồng (mười ba triệu hai trăm nghìn đồng).
- Tạm giữ của Phùng Thị Mai Th: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone 7, màu đen, bên trong có gắn sim số: 0936.764.337; số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng); 01 thẻ ATM ngân hàng Agribank, mang tên Thân Đức Minh.
- Tạm giữ của Huỳnh Thị A: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone, màu hồng, bên trong có gắn sim số: 0879.362.302; số tiền 860.000 đồng (tám trăm sáu mươi nghìn đồng) (BL: 788-809; xxx0- xxx5a).
Kết luận giám định số 1353/GĐ-PC09 ngày 18/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định:
- Phong bì 01: Mẫu tinh thể M1 (là bịch nylon kích thước khoảng 3cm x 3cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,9345g (không phẩy chín ba bốn năm gam), loại Ketamine.
- Phong bì 02: Mẫu tinh thể M2 (là chất bột màu trắng được thu gom trên đĩa sứ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4525g (không phẩy bốn năm gam hai lăm gam), loại Ketamine.
Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ (BL: 820-824).
2. Tại Phòng VIP 203 của quán Karaoke KTC: Vào khoảng 20 giờ ngày 15/01/2022, Nguyễn Văn Th, Đinh Thanh Luân, Phạm Vũ Tr, Bùi Văn Ngà, sau khi ăn nhậu xong tại nhà của Th ở Hiệp Th, Đức Trọng thì cả nhóm thống nhất rủ nhau lên Đ chơi. Sau đó cả nhóm thuê xe taxi đi, trên đường đi Luân điện thoại để rủ Lê Văn Th đi cùng thì Th đồng ý, sau đó cả nhóm đón Th ở xã Hiệp An, huyện Đức Trọng rồi cùng đi lên Đ. Khi lên đến đèo Prenn, Phường 3, thành phố Đ thì cả nhóm thống nhất đến quán Karaoke KTC để cùng nhau hát karaoke. Cùng thời điểm này thì Th liên lạc với Đức (là nhân viên quán karaoke KTC) để đặt mua 04 viên thuốc lắc và một gói Ketamine thì Đức nói Lương Trọng T sẽ giao ma túy cho Th tại quán. Khi đến quán Karaoke KTC, cả nhóm được T đưa lên phòng VIP 203, lúc này Th gọi điện rủ bạn là Trương Hoàng Nhật K (Rô), sinh năm 1993, HKTT: 27/30 Yersin, phường 10, thành phố Đ cùng tới hát Karaoke thì K đồng ý đi tới cùng hát Karaoke, được một lúc thì K đi về trước. Sau khi K đi về thì có một nhân viên vào hỏi cả nhóm “mấy anh có nghe nhạc và gọi tiếp viên nữ không” thì cả nhóm đồng ý, lúc này Th, Luân và Th tự hiểu sau khi chơi xong sẽ chia đều tiền mua ma túy và tiền phòng do trước đó cả 3 đã sử dụng ma túy tại quán Karoke KTC, còn Tr, Ngà không nghe thấy việc bàn bạc mua ma túy. Đối với tiền cho tiếp viên nữ thì người nào ngồi với tiếp viên nào sẽ có trách nhiệm trả tiền cho tiếp viên đó. Sau đó, lần lượt có 05 nữ tiếp viên gồm Lê Phạm Xuân Q, Huỳnh Thị Ng N, Lê Thị Kiều V, Lê Thị Đ và Lê Đ Ph đi vào phòng 203 để phục vụ. Khoảng nửa tiếng sau thì Lương Trọng T mang ma túy lên đưa cho Th 04 viên ma túy thuốc lắc và nửa hộp năm ma túy Ketamine, Th trả cho T số tiền 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Khi có ma túy thì Th để ma túy trên bàn trong phòng 203 và mọi người cùng sử dụng ma túy, cụ thể việc sử dụng ma túy của các đối tượng như sau:
- Sau khi có ma túy thì Q nghiền mịn ma túy Ketamine có ở trong đĩa sứ màu trắng thành 03 đường và đưa đĩa ma túy này cho Th hít 02 đường. Q khai nhận không sử dụng ma túy vào ngày bị bắt quả tang, tuy nhiên trước đó đã sử dụng ma túy loại thuốc lắc với Th, Luân, Th tại phòng VIP 206 karaoke KTC vào ngày 14/1/2022.
- Th được Q đưa đĩa ma túy Ketamine, Th đã sử dụng hít hai đường và tự lấy sử dụng một phần viên ma túy loại thuốc lắc;
- Luân khai nhận tự lấy sử dụng một phần ma túy thuốc lắc và tự hít một đường ma túy Ketamine. Tr khai nhận lúc trong phòng hát thì Luân có đưa ống hút cho Th sử dụng ma túy;
- Th được Luân đưa một phần ma túy loại thuốc lắc, Th đã sử dụng hết số ma túy này; ngoài ra Th khai nhận được Q đưa đĩa Ketamine và Th hít sử dụng 02 đường, Q còn đưa đĩa ma túy Ketamine cho tiếp viên nữ phục vụ Th để người này sử dụng ma túy;
- Tr khai nhận không sử dụng ma túy trong phòng 202, Tr không biết vì sao dương tính với ma túy;
- Ngà được một người (Ngà không nhớ là ai) đưa một phần ma túy loại thuốc lắc sư dụng; không sử dụng ma túy loại Ketamine.
- Huỳnh Thị Ng N được một người (không nhớ là ai) đưa một viên ma túy thuốc lắc để sử dụng, sau đó N tự lấy ma túy Ketamine trong đĩa sử dụng hít một đường.
- Lê Thị Kiều V được người đàn ông ngồi cạnh (không nhớ là ai) đưa đĩa ma túy Ketamine, V đã hít một đường, V không sử dụng ma túy loại thuốc lắc;
- Lê Đ Ph được một người đàn ông (không nhớ là ai) đưa cho một mảnh ma túy thuốc lắc sử dụng; Ph không sử dụng ma túy Ketamine;
- Lê Thị Đ được một nam thanh niên không rõ là ai đưa một phần ma túy thuốc lắc để sử dụng, sau đó Đ tự lấy ma túy Ketamine trong đĩa sử dụng hít hai đường.
Trong lúc cả nhóm đang nghe nhạc và sử dụng ma túy thì bị Công an tỉnh Đ vào kiểm tra, qua test nhanh cả 10 đối tượng này đều dương tính với ma túy. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ số ma túy chưa sử dụng hết cùng các dụng cụ sử dụng ma túy (BL: 516-523; 526- 535; 599-615; 620-641; 646-661; 666-683; 684-721; 1309-1314; 1568-1590).
Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ khi bắt quả tang:
+ 01 (một) đĩa sứ màu trắng, dạng vuông, kích thước mỗi cạnh khoảng 26cm, trên bề mặt đĩa sứ này có chứa chất dạng tinh thể màu trắng nghi là ma túy.
+ 01 (một) thẻ nhựa màu vàng, bề mặt có dòng chữ “LOUIS VUITTON”, có kích thước khoảng 05cm x 08cm và 01 ống hình trụ tròn, dài khoảng 13cm, được quấn bằng tờ tiền polymer mệnh giá 10.000đ, hai đầu ống được quấn bằng vỏ đầu lọc thuốc lá có ghi chữ số “555”. Bên trên thẻ nhựa và trong thành ống hút có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy.
- Tạm giữ của Đinh Th L: 01(một) điện thoại di động hiệu OPPO A15, màu xanh đen, bên trong có gắn sim số 094431xxxx, 091791xxxx; 01 chứng minh nhân dân số 250745547 mang tên Đinh Th L, hiện nay Cơ quan điều tra đã trả lại chứng minh nhân dân cho Luân.
- Tạm giữ của Lê Văn Th: 01(một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu trắng, bên trong có gắn sim số: 0367.373.839; 01 căn cước công dân số 03808802xxxx mang tên Lê Văn Th.
- Tạm giữ của Nguyễn Văn Th: 01 (một) điện thoại di động hiệu SamSung Note 10 Plus, màu trắng, bên trong có gắn sim số: 0933.489.501.
- Tạm giữ của Lê Phạm Xuân Q: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0927.655.081 (BL: 523-524;
1602).
Kết luận giám định số 45/GĐ-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định: Mẫu tinh thể được tách riêng trên 01 đĩa sứ, 01 thẻ nhựa và 01 ống hút được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3881g (không phẩy ba tám tám một gam), loại Ketamine.
Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ (BL: 538a-538).
3. Tại phòng VIP 206 quán Karaoke KTC:
Vào khoảng 21 giờ ngày 15/1/2022, Nguyễn Kh1 Tr (quản lý quán karaoke KTC), Phạm Văn D, Nguyễn Hoàng Kh, Trương Ph, Hồ Đắc H, Trần Ph Th sau khi ăn nhậu tại quán Th Hiền trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Phường 9, thành phố Đ thì Tr rủ D, Th, Kh, P, H2 và Th cùng đến quán Karaoke KTC để hát karaoke và sử dụng ma túy thì nhóm đều đồng ý. Tại quán Karaoke KTC, P, H2, Kh thống nhất mỗi người góp 2.000.000 đồng đưa cho Tr để trả tiền thuê phòng và mua ma túy cho cả nhóm cùng sử dụng. Sau khi cả nhóm vào phòng hát 206, Tr liên hệ nhờ Phạm B Ng (Tr) là Lễ tân của quán mua ma túy cho Tr thì Ng đồng ý. Sau đó, Ng liên lạc với một đối tượng tên Toàn (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 07 viên ma túy loại thuốc lắc và nửa hộp năm ma túy Ketamine đưa cho Tr thì Tr nói với Ng sẽ trả tiền cho Toàn vào hôm sau. Khi có ma túy, Tr gọi Lương Trọng T vào phòng, đổ ma túy Ketamine ra đĩa rồi dùng thẻ nhựa nghiền ma túy phân chia thành nhiều đường, phân chia ma túy xong thì T cầm đĩa ma túy đi mời một số người trong phòng (Tr, P, Th, D, H2, Kh và một số người khác), rồi đi ra khỏi phòng. Quá trình chơi tại phòng thì có nhóm bạn của Tr, P là Nguyễn Văn Th, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Ch, Trần Cao L, Vũ Văn Kh1, Nguyễn Văn Th cùng 05 tiếp viên nữ là Nguyễn Hạ M, Nguyễn Thị Cẩm T, Hoàng Thị M N, Nguyễn Thị Lệ Nh, Nguyễn Thị Yến N cùng vào sử dụng ma túy. Trong lúc nghe nhạc và sử dụng ma túy thì các đối tượng sử dụng ma túy như sau:
- Tr đã sử dụng 03 đường ma túy Ketamine, không sử dụng ma túy loại thuốc lắc;
- P tự lấy sử dụng 02 đường ma túy Ketamine và một phần viên ma túy loại thuốc lắc;
- Kh được T đưa đĩa sứ có ma túy Ketamine, Kh lấy ống hút hít một đường, tự lấy sử dụng nửa viên ma túy loại thuốc lắc, còn nửa viên thì Kh để lại trên bàn;
- H2 được P đưa sử dụng một phần viên ma túy loại thuốc lắc và P đưa tiếp đĩa ma túy Ketamine cho H2, H2 sử dụng ống hút hít hai đường, một lúc sau H2 được một người nam không rõ là ai đưa đĩa sứ có ma túy Ketamine và H2 tiếp tục sử dụng thêm 02 đường;
- D được một nam nhân viên không rõ là ai đưa đĩa ma túy Ketamine, D lấy ống hút hít một đường và tiếp tục tự lấy một phần viên ma túy loại thuốc lắc để sử dụng. Sau khi sử dụng xong thì D bê đĩa chứa ma túy ketamine và đưa thuốc lắc cho N sử dụng.
- L tự lấy sử dụng 03 đường ma túy Ketamine;
- H được một người không rõ là ai đưa đĩa ma túy Ketamine mời H sử dụng, H sử dụng ống hút và hít một đường;
- Th tự lấy sử dụng 02 đường ma túy Ketamine;
- Th được P rủ đến chơi, Th không sử dụng ma túy tại phòng 206;
- Kh1 có sử dụng ma túy Ketmine với bạn từ trước, không sử dụng ma túy trong phòng 206;
- Ch được một người nam không rõ là ai đưa đĩa ma túy Ketamine, Ch lấy ống hút hít một đường;
- Hoàng Thị M N được D đưa đĩa ma túy Ketamine và N lấy ống hút hít 02 đường;
- Nguyễn Thị Cẩm T được P đưa đĩa Ketamine cho L và T2 sử dụng ma túy, L lấy ống hút sử dụng xong thì L đưa ống hút cho T2 và T2 đã sử dụng ống hút hít một đường ma túy Ketamine rồi để lại ống hút vào đĩa, P tiếp tục đi mời những người khác trong phòng;
- Nguyễn Thị Lệ Nh được một nam thanh niên mặc áo đen đưa đĩa Ketamine cho Th và Nh sử dụng ma túy, Th lấy ống hút sử dụng xong thì Th đưa ống hút cho Nh và Nh đã sử dụng ống hút hít một đường ma túy Ketamine rồi để lại ống hút vào đĩa, người đàn ông tiếp tục đi mời những người khác trong phòng;
- Nguyễn Hạ M được P đưa đĩa Ketamine cho Tr và M sử dụng ma túy, Tr lấy ống hút sử dụng xong thì Tr đưa ống hút cho M và M đã sử dụng ống hút hít hai đường ma túy Ketamine rồi để lại ống hút vào đĩa;
- Trần Ph Th tự lấy một ít ma tuý Ketamine bằng thẻ nhựa rồi đổ vào ly Cocacola của Th rồi tự uống;
- Phùng Văn Th tự lấy ống hút sử dụng ma túy Ketamine có trong đĩa sứ và tự lấy một phần viên ma túy thuốc lắc sử dụng;
- Nguyễn Thị Yến N tự lấy một ít ma túy Ketamine bằng thẻ nhựa rồi đổ vào ly Cocacola của N rồi tự uống;
Trong lúc cả nhóm đang nghe nhạc và sử dụng ma túy thì bị Công an tỉnh Đ vào kiểm tra bắt quả tang, qua test nhanh cả 18 đối tượng đều dương tính với ma túy Ketamine (BL: 160-175; 197-200; 206-223; 308-331; 338-357; 367-382; 387-458; 1252-1271; 1542-1557) Vật chứng thu giữ:
- Thu giữ khi bắt quả tang:
+ Chất dạng tinh thể màu trắng, nghi là ma túy được gom vào 01 túi nylon dán băng keo đen và niêm phong vào 01 phong bì ký hiệu số 01 + 01 (một) đĩa sứ màu trắng, dạng vuông, kích thước mỗi cạnh khoảng 30cm; 01 ống hút được cuốn bằng tờ tiền Polime không rõ mệnh giá; 01 thẻ nhựa hình chữ nhật kích thước 10cm x 15cm, trên bề mặt của những đồ vật này có dính các chất bột màu trắng nghi là ma túy được niêm phong vào 01 phong bì ký hiệu 02;
- Tạm giữ của Nguyễn Ḱnh Tr: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone 12 Pro, màu xanh đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số: 0987.543xxx; 01 điện thoại di dộng hiệu SamSung Note 20 Ultra, màu hồng, đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số: 0853.921.xxx; số tiền 6.150.000đ (sáu triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).
- Tạm giữ của Trương Ph: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro, màu trắng, bên trong có gắn sim số: 0919.309.486; 01 xe ô tô hiệu Kia Cerato, biển số: 49A-xxxxx, số máy: G4FGGH672404, số khung: RNYYE41M6HC112099, đã qua sử dụng; 01 đăng ký xe ô tô biển số 49A-xxxxx mang tên Nguyễn Thị S; số tiền 1.800.000đ (một triệu tám trăm nghìn đồng); 01 chứng minh nhân dân số 191xxx123 mang tên Trương Ph - Tạm giữ của Hồ Đắc H: 01 điện thoại di động hiệu SamSung Note 10 Lite, màu trắng, bên trong có gắn sim số: 0938187xxx; 01 (một) xe mô tô hiệu Honda SH, màu đen, biển số 49B1- xxxxx.
- Tạm giữ của Nguyễn Hoàng Kh: 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu đen, bên trong có gắn sim số: 0819.998.xxx, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Vertu, màu vàng - đen, 0901.556.xxx, đã qua sử dụng; số tiền 410.000 đồng (bốn trăm mười nghìn đồng).
- Tạm giữ của Phạm Văn D: 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, có gắn sim số: 0847.96xxxx; 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung, màu vàng, bên trong có gắn sim số: 0364.032.xxx; 01 căn cước công dân số 031078003xxx mang tên Phạm Văn D. Sau khi ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với D thì Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đ đã trả lại số tài sản và giấy tờ trên cho gia định bị can D.
- Tạm giữ của Nguyễn Văn Ch: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone 12 Pro Max, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0918.194.786.
- Tạm giữ của Nguyễn Văn H: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone 12 Pro Max, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0912.271.032; số tiền 2.600.000 đồng (hai triệu sáu trăm nghìn đồng).
- Tạm giữ của Nguyễn Văn Th: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, màu đen, bên trong có gắn sim số: 0919.782006; số tiền 670.000 đồng (sáu trăm bảy mươi nghìn đồng).
- Tạm giữ của Nguyễn Thị Cẩm T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0387560351; số tiền 560.000 đồng (năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
- Tạm giữ của Nguyễn Hạ M: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0919.197708; số tiền 1.100.000 đồng;
01 chứng minh nhân dân số 261415387 mang tên Nguyễn Hạ M.
- Tạm giữ của Hoàng Thị M N: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro, màu vàng, bên trong có gắn sim số 0325.253.697.
- Tạm giữ của Trần Ph Th: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro, màu xanh, bên trong có gắn sim số 0917.471.343; số tiền 21.360.000đ (hai mươi mốt triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng).
- Tạm giữ của Nguyễn Thị Yến N 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh, bên trong có gắn sim số 0902.10xxxx; 01 điện thoại di dộng hiệu Itel, màu đen, dạng phím bấm, bên trong gắn sim số: 0928.29xxx6 và 039289xxxx; số tiền 10.300.000 đồng (mười triệu ba trăm nghìn đồng).
- Tạm giữ của Trần Cao L: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, dạng phím bấm, màu đen, bên trong có gắn sim số: 0973.567.892; 01 máy tính bảng hiệu “arrows”, màu đen, đã qua sử dụng; số tiền 6.450.000 đồng (sáu triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
- Tạm giữ của Phùng Văn Th: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone, màu xanh bên trong có gắn sim số 0979.231.319; 01 căn cước công dân số 02607900xxxx mang tên Phùng Văn Th.
- Tạm giữ của Vũ Văn Ḱnh: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone, màu xanh.
- Tạm giữ của Nguyễn Thị Lệ Nh: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone, màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu Realme C1, màu xanh, bên trong có gắn sim số: 0782.802033; 01 chứng minh nhân dân số 364171283 mang tên Nguyễn Thị Lệ Nh.
- Tạm giữ của Nguyễn Văn Th: 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone, có gắn sim số 0988.263.458; số tiền 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng) Ngày 28/10/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản và giấy tờ đã thu giữ của Nguyễn Văn Th, Nguyễn Thị Cẩm T, Nguyễn Hạ M, Hoàng Thị M N, Nguyễn Thị Lệ Nh, Trần Ph Th, Nguyễn Văn Th, Nguyễn Thị Yến N, Nguyễn Văn Ch, Vũ Văn Ḱnh, Nguyễn Văn H, Nguyễn Thị S (chủ sở hữu chiếc xe ô tô hiệu Kia Cerato biển số 49A - 329.96) (BL: 236-251;
1362-1389) Kết luận giám định số 43/GĐ-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định - Phong bì 01: Mẫu tinh thể M1 (tinh thể màu trắng được thu gom trên đĩa sứ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6463g (không phẩy sáu bốn sáu ba gam), loại Ketamine.
- Phong bì 02: Mẫu tinh thể M2 (chất tinh thể còn lại, bám dính trên đĩa sứ, thẻ nhựa và ống hút) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0092g (không phẩy không không chín hai) gam loại Ketamine.
Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ (BL: 201-205).
4. Hành vi Mua bán trái phép chất ma túy của Lương Trọng T:
Quá trình Công an tỉnh Đ kiểm tra 03 phòng hát có sử dụng ma túy tại quán Karaoke KTC, cơ quan Công an còn tiến hành kiểm tra khu vực sảnh quán Karaoke KTC và phát hiện Lương Trọng T đang đi từ phía trong nhà vệ sinh nam ở khu vực sảnh Karaoke KTC đi ra, trên tay trái của T đang cầm 01 gói giấy, dạng giấy vệ sinh - nghi có ma túy bên trong. Khi thấy Cơ quan công an, T thả gói giấy xuống sàn nhà vệ sinh thì bị Công an kiểm tra trong gói giấy phát hiện có 05 viên nén nghi là ma túy và 01 gói nylon có đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy; Cơ quan Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, đồng thời thu giữ, niêm phong số chất nghi là ma túy để phục vụ giám định.
Quá trình điều tra, Lương Trọng T khai nhận: khoảng 17 giờ ngày 15/1/2022, T liên hệ một người tên Nhật (do tài quen biết ngoài xã hội và không rõ nhân thân lai lịch) đặt mua của Nhật 16 viên ma túy loại thuốc lắc với giá 230.000đ/1 viên và 05 gói ma túy loại Ketamine, mỗi gói là nửa hộp năm có giá là 2.600.000đ. Khoảng 18 giờ cùng ngày Nhật đi xe taxi một mình đến quán karaoke KTC và đưa cho T số ma túy mà T đã đặt mua, số ma túy này được Nhật bỏ trong bao thuốc lá hiệu SEVEN DIAMONDS, Nhật nói với T khi nào bán xong ma túy này thì thanh toán cho Nhật rồi Nhật bỏ đi. Bao thuốc lá đựng ma túy mua của Nhật được T cất giấu vào sau giỏ rác trong phòng về sinh đầu tiên của nhà vệ sinh ở sảnh tầng trệt Karaoke KTC; trước khi cất giấu thì T đã chia bớt ma túy Ketamine trong 05 gói nửa hộp năm ra thêm 01 gói loại 01 chấm Ketamine để bán thêm cho khách kiếm lời. T khai nhận đã 02 lần bán ma túy vào ngày 15/01/2022 và ngày 16/01/2022 như sau:
- Lần thứ nhất: Tối ngày 15/01/2022, Đức có gọi điện cho T và nói có khách tên Th chuẩn bị tới quán Karaoke KTC để bay (sử dụng ma túy) và hỏi mua ma túy của Đức nhưng Đức không có ở quán và nói T bán cho Th. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì Th và một số người bạn của Th tới quán Karaoke KTC để hát tại phòng 203, khi T dẫn Th và bạn vào phòng 203 thì Th có nói lấy 04 viên ma túy loại thuốc lắc và nửa hộp năm ma túy Ketamine, sau đó T lấy số ma túy mang ma túy lên để trong phòng 203 rồi lấy số tiền 4.500.000 đồng từ Th.
- Lần thứ hai: Khuya ngày 15/01/2022, Nguyễn Thị M K có liên lạc với T để hỏi mua ma túy cho khách của K2 tới hát tại quán Karaoke KTC thì T đồng ý. Đến khoảng 0 giờ ngày 16/01/2022, K2 dẫn một nhóm bạn của K2 tới thuê phòng 202 để hát thì T có bán cho K2 04 viên thuốc lắc và nữa hộp ketamine với giá là 4.700.000 đồng, K2 đã trả đủ tiền cho bị can.
Khoảng 15 phút sau, Đức tiếp tục giới thiệu cho T bán 05 viên ma túy loại thuốc lắc và nửa hộp năm ma túy Ketamine cho khách tại phòng hát 207, T vào trong nhà vệ sinh lấy số ma túy này ra để đưa cho Đức theo yêu cầu của Đức thì bị cơ quan Công an bắt quả tang thu giữ số ma túy mà T thả xuống sàn nhà khi bị cơ quan Công an phát hiện. Sau khi bắt quả tang và làm việc, T tự nguyện khai nhận thêm số ma túy còn lại có trong bao thuốc lá mà T còn cất giấu trong nhà vệ sinh mục đích là để T bán cho khách kiếm lời, T đã tự nguyện chỉ số ma túy này cho cơ quan Công an để tiến hành thu giữ, niêm phong phục vụ giám định (BL: 37a-45; 62-112; 118-159).
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói giấy dạng giấy vệ sinh, bên trong có đựng 05 viên nén màu vàng nghi là ma túy và 01 gói nylon màu trắng, kích thước 4cm x 4cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Tất cả được niêm phong vào 01 phong bì màu trắng ghi số 01;
- 01 vỏ gói thuốc lá hiệu SEVEN DIAMOND, bên trong gói thuốc lá có chứa: 01 gói nylon màu trắng, kích thước 4,5cm x 8,5cm, bên trong chứa 03 viên nén màu vàng nghi là ma túy; 01 gói nylon màu trắng, kích thước 3cm x 4cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 02 gói nylon màu trắng, kích thước 4cm x 4cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Tất cả được niêm phong vào 01 phong bì màu trắng có ghi số 04.
- 01 điện thoại di dộng hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xanh đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim số: 0367.255.919.
- 9.200.000 đồng (chín triệu hai trăm nghìn đồng).
- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân tên Lương Trọng T; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Lương Trọng T (BL: 37a- 40) Kết luận giám định số 44/GĐ-PC09 ngày 19/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định - Phong bì 01 (số ma túy thu giữ tại thời điểm bắt quả tang):
+ Mẫu tinh thể (M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,9462 gam, loại Ketamine.
+ Mẫu năm viên nén (M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,0130gam, loại MDMA.
- Phong bì 02: (số ma túy do Lương Trọng T đưa Cơ quan công an đi thu giữ trong nhà vệ sinh):
+ Mẫu tinh thể (M3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,2058gam, loại Ketamine.
+ Mẫu năm viên nén (M4) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1551gam, loại MDMA.
Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
* Đối với hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy tại quán Karaoke KTC:
Vào ngày 18/8/2020, Nguyễn Kh1 Tr được Vũ Minh Đức, sinh năm 1970, trú tại: Gia Lâm, Th phố H, là anh ruột của Vũ Thị Ng B - Giám đốc công ty TMHH MTV Địa ốc K2 Thi Đ tuyển dụng vào làm việc tại quán Karaoke KTC. Đến năm 2021, do dịch Covid -19 nên quán Karaoke đóng cửa và Tr ra ngoài làm. Đến ngày 01/01/2022, quán Karaoke KTC mở cửa trở lại, lúc này Tr được Đức giao làm quản lý karaoke KTC, nhưng không có hợp đồng lao động. Sau khi được giao quản lý quán Karaoke thì để tăng doanh thu cho quán và kiếm thêm chi phí cho nhân viên thì Tr cho khách vào thuê phòng để hát, nghe nhạc và sử dụng ma túy. Tr chỉ đạo nhân viên thu ngân, phục vụ thu tiền thuê phòng của khách với giá 600.000đ/1h khi khách có sử dụng ma túy trong phòng, còn khách không sử dụng ma túy thì thu với giá 300.000đ/1h/phòng; Tr giao cho Phạm B Ng làm Lễ tân tại quán, đồng thời Tr quy định nhân viên nữ phục vụ tại phòng không sử dụng ma túy sẽ phải nộp lại 30.000 đồng còn phục vụ tại phòng có sử dụng ma túy phải nộp lại từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng. Đối với số tiền phòng hát thu được thì bị cáo Tr chuyển lại hết cho Đức, tuy nhiên Tr không nói cho Đức biết về việc thu thêm 300.000 đồng/giờ đối với phòng sử dụng ma túy mà chỉ nói số tiền trên là khách hát ngoài giờ. Đối với số tiền thu được của nhân viên phục vụ trong phòng hát có sử dụng ma túy thì Tr bỏ vào 01 con heo đất (không thu giữ được khi bị bắt quả tang) để cuối tháng sẽ chi thêm cho nhân viên của quán. Hàng ngày, nhân viên trong quán sẽ báo lại cho Tr biết việc có khách sử dụng trái phép chất ma túy tại quán, sau đó Tr sẽ tính tổng số tiền sau khi trừ đi chi phí để chuyển cho Đức. Tr khai nhận từ 01/01/2022, Tr có cho nhiều khách sử dụng ma túy tại quán Karaoke KTC, tuy nhiên Tr không nhớ cụ thể là bao nhiêu lần và bao nhiêu người. Vào ngày 15/1/2022, ngoài phòng 206 mà Tr tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì còn có 02 phòng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại quán Karaoke KTC (phòng 202 và 203), mặc dù thời điểm này các nhân viên chưa thông báo cho Tr biết, tuy nhiên trước đó Tr đã cho nhiều người khác sử dụng ma túy tại quán Karaoke KTC nên với vai trò là quản lý quán toàn bộ hoạt động của Karaoke KTC thì Tr phải chịu trách nhiệm với việc để mặc cho nhiều người sử dụng ma túy tại phòng 202 và 203 do Tr quản lý (BL: 160-175;
308-331).
Tại bản cáo trạng số 124/CT-VKSĐL ngày 18/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 và điểm b khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự. Truy tố Lương Trọng T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Truy tố các bị cáo Hồ Đắc H, Nguyễn Hoàng Kh, Trương Ph, Nguyễn Văn Th, Đinh Th L, Lê Văn Th, Lê Phạm Xuân Q, Phạm B Ng, Nguyễn Thị Cẩm T, Võ Nguyễn Tú H, Nguyễn H, Nguyễn Thị M K, Ngô Đức Thanh L, Nguyễn Văn Tr T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt BLHS 2015).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2023/HS-ST ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đ đã xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” Tuyên bố bị cáo Trương Ph, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Th, phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38; 58 BLHS 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr 10 (mười) năm 6 (sáu) tháng tù.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38 BLHS 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr 10 (mười) năm tù.
Áp dụng Điều 55 BLHS 2015, buộc bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr phải chấp hành chung cho cả hai tội là 20 (hai mươi) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 và các Điều 38; 58 BLHS 2015, xử phạt bị cáo Trương Ph 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38; 58 BLHS 2015, xử phạt bị cáo Lê Văn Th 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 05/01/2024 bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr, Lê Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 09/01/2024 bị cáo Trương Ph kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 10/01/2024 bị cáo Nguyễn Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Đ đã tuyên xử đối với các bị cáo; đồng thời, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Th, bị cáo Th xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới.
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ, đề nghị Hội đồng xét xử Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (sau đây viết là HĐXX) nhận định như sau:
[1] Xét đơn kháng cáo của các bị cáo đến Toà án trong hạn luật định nên thời hạn kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[2] Nguyễn Ḱnh Tr là quản lý quán Karaoke KTC tại số 03 đường H Vương, Phường 10, thành phố Đ, tỉnh Đ. Trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/2022 đến ngày 15/01/2022 để tăng doanh thu cho quán và thu thêm lợi nhuận cho nhân viên thì Tr đã cho nhiều người thuê phòng hát tại quán KTC sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 15/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ bắt quả tang 03 phòng hát tại quán KTC đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Cụ thể:
Tại phòng VIP 202: Võ Nguyễn Tú H, Nguyễn HNguyễn Thị M K, Ngô Đức Thanh L, Nguyễn Văn Tr T và Nguyễn Thị Cẩm T đã chuẩn bị ma túy (do Lương Trọng T bán), địa điểm và công cụ để tổ chưc sử dụng trái phép chất ma túy cho 08 người cùng một lúc.
Tại phòng VIP 203: Nguyễn Văn Th, Đinh Th L, Lê Văn Th, Lê Phạm Xuân Q đã chuẩn bị ma túy (do Lương Trọng T bán), địa điểm và công cụ để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho 10 người cùng một lúc.
Tại phòng VIP 206: Nguyễn Kh1 Tr, Lương Trọng T, Phạm B Ng, Hồ Đắc H, Nguyễn Hoàng Kh, Trương Ph đã chuẩn bị ma túy , địa điểm, công cụ và rủ rê người khác để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho 18 người cùng một lúc.
Ngoài ra, tại thời điểm kiểm tra, cơ quan điều tra còn bắt quả tang Lương Trọng T đang tàng trữ 6,1520 gam ma lúy loại Ketamine và 3,1681 gam ma túy loại MDMA nhằm mục đích bán cho người sử dụng ma túy tại quán Karaoke KTC. Quá trình điều tra đã làm rõ vào ngày 15/01/2022, Lương Trọng T đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thị M K tại phòng VIP 202 và Nguyễn Văn Th tại phòng VIP 203, tổng số lượng ma túy tại phòng 202 và phòng 203 chưa sử dụng hết là 1,7751 gam ma túy loại Ketamine.
[2.1.1] Tại Kết luận giám định số 1353/GĐ-PC09 ngày 18/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định (tang vật thu tại phòng 202):
+ Phong bì 01: Mẫu tinh thể M1 (là bịch nylon kích thước khoảng 3cm x 3cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,9345g (không phẩy chín ba bốn năm gam), loại Ketamine.
+ Phong bì 02: Mẫu tinh thể M2 (là chất bột màu trắng được thu gom trên đĩa sứ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4525g (không phẩy bốn năm gam hai lăm gam), loại Ketamine.
[2.1.2] Tại Kết luận giám định số 45/GĐ-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định (tang vật thu tại phòng 203):
Mẫu tinh thể được tách riêng trên 01 đĩa sứ, 01 thẻ nhựa và 01 ống hút được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3881g (không phẩy ba tám tám một gam), loại Ketamine.
[2.1.3] Tại Kết luận giám định số 43/GĐ-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ xác định (tang vật thu tại phòng 206):
+ Phong bì 01: Mẫu tinh thể M1 (tinh thể màu trắng được thu gom trên đĩa sứ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6463g (không phẩy sáu bốn sáu ba gam), loại Ketamine.
+ Phong bì 02: Mẫu tinh thể M2 (chất tinh thể còn lại, bám dính trên đĩa sứ, thẻ nhựa và ống hút) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0092g (không phẩy không không chín hai) gam loại Ketamine.
Ngoài ra, Tr được Đức giao làm quản lý Karaoke KTC, nhưng không có hợp đồng lao động. Sau khi được giao quản lý quán Karaoke thì để tăng doanh thu cho quán và kiếm thêm chi phí cho nhân viên thì Tr cho khách vào thuê phòng để hát, nghe nhạc và sử dụng ma túy. Tr khai nhận từ 01/01/2022, Tr có cho nhiều khách sử dụng ma túy tại quán Karaoke KTC. Tuy nhiên, Tr không nhớ cụ thể là bao nhiêu lần và bao nhiêu người. Vào ngày 15/1/2022, ngoài phòng 206 mà Tr tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì còn có 02 phòng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại quán Karaoke KTC (phòng 202 và 203), mặc dù thời điểm này các nhân viên chưa thông báo cho Tr biết, tuy nhiên trước đó Tr đã cho nhiều người khác sử dụng ma túy tại quán Karaoke KTC nên với vai trò là quản lý quán toàn bộ hoạt động của Karaoke KTC thì Tr phải chịu trách nhiệm với việc để mặc cho nhiều người sử dụng ma túy tại phòng 202 và 203 do Tr quản lý.
[3] Tại phiên toà sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Đ đã xét xử. Tội phạm và hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo được bản án sơ thẩm phân tích, đánh giá và tuyên bố bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 và điểm b khoản 2 Điều 256 BLHS 2015; Hành vi của các bị cáo Trương Ph, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Th phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, riêng bị cáo Nguyễn Văn Th xuất trình giấy tờ xác nhận có ông, bà nội tham gia dân công hỏa tuyến của Bộ tư lệnh Quân khu 4. Bị cáo Lê Văn Th xuất giấy chứng nhận có ông, bà tham gia dân công hỏa tuyến do Bộ tư lệnh Quân khu 7 xác nhận, Hội đồng xét xử áp dụng cho các bị cáo Th, Th thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới tại khoản 2 Điều 52 BLHS 2015. Tuy nhiên, qua xem xét vai trò, mức độ tham gia thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo Th tích cực hơn so với các bị cáo khác nên khi lượng hình bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo mức án 10 năm 06 tháng tù, bị cáo Th 07 năm tù là có căn cứ và phù hợp nên HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo theo đề nghị xủa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Từ những nhận định trên, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr, Lê Văn Th, Trương Ph, Nguyễn Văn Th, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2023/HS-ST ngày 28/12/2023 của Toà án nhân dân thành phố Đ.
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”;
Tuyên bố các bị cáo Trương Ph, Nguyễn Văn Th, Lê Văn Th phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr 10 (mười) năm 6 (sáu) tháng tù.
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 và các Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr 10 (mười) năm tù.
Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr phải chấp hành chung cho cả hai tội là 20 (hai mươi) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
2.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Ph 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
2.3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
2.4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và các Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn Th 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn Ḱnh Tr, Lê Văn Th, Trương Ph, Nguyễn Văn Th, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, hết thời hạn kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 39/2024/HS-PT
Số hiệu: | 39/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về