Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất, nhập cảnh trái phép số 666/2022/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 666/2022/HSPT NGÀY 19/09/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC XUẤT, NHẬP CẢNH TRÁI PHÉP

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở TAND tỉnh L, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 321/2022/TLPT-HS ngày 19 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Tạ Tiến T và Mai Văn T1 phạm tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” do có kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 07/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

Các cáo bị kháng cáo:

1. Tạ Tiến T, sinh ngày 21/5/1985 tại huyện L1, tỉnh B; nơi cư trú và chỗ ở: Thôn A, xã V, huyện L2, tỉnh B; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Huy C và bà Dương Thị N; có vợ Hoàng Thị Trà G (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2008; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2014/HSST ngày 02/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện L2, tỉnh B và Bản án hình sự phúc thẩm số 344/2014/HSPT ngày 31/12/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh B, xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội Cướp tài sản (đã xóa án tích); Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 1702/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B, xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội Cưỡng đoạt tài sản; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08-5-2021 đến nay; (có mặt tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/7/2022), vắng mặt tại phiên tòa hôm nay.

2. Mai Văn T1, sinh ngày 28/11/1985 tại huyện L1, tỉnh B; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: B, xã B1, huyện L1, tỉnh B; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn H và bà Đoàn Thị H1; có vợ Vy Thị S và 02 con; con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/5/2021 đến nay; (có mặt tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/7/2022), vắng mặt tại phiên tòa hôm nay.

3. Dương Tất T5, sinh ngày 07/8/1979 tại huyện V1, tỉnh V; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn A1, xã N2, huyện V1, tỉnh V, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2021 đến nay vắng mặt tại phiên tòa hôm nay.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:

1. Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam, địa chỉ: Tầng 1, 2 Tòa nhà S1 số 111A P, phường B3, quận M, Thành phố H2;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng D, Ông Tô Văn L3, Ông Nguyễn Khắc Đ (Văn bản ủy quyền số 0198443.21 ngày 26/11/2021 Ông D, Ông L3 (có mặt)

2. Ngân hàng Thương mại cổ phần T4 (TP bank); địa chỉ: Số 57 phố L4, phường T3, quận H4, thành phố H3.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ma Nhân Hoàng A2, (Văn bản ủy quyền số 54/2022/UQ-TPB.RB ngày 18/7/2022 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ ngày 25/12/2020 đến ngày 07/5/2021, trên địa bàn tỉnh L, bị cáo Lý Văn K đã nhiều lần tổ chức cho người Trung Quốc xuất nhập cảnh trái phép sang Trung Quốc và về Việt Nam trong đó sự tham gia của Tạ Tiến T, Mai Văn T1 tổ chức cho 05 người Trung Quốc xuất cảnh trái phép và bị bắt quả tang vào ngày 07-5-2021 cụ thể như sau:

08 giờ sáng ngày 07/5/2021, A Si nhắn tin qua Wechat thuê Lý Văn K đón 06 người Trung Quốc từ H3 đưa đến huyện Đ1, tỉnh L để xuất cảnh trái phép về Trung Quốc, tiền công là 2200NDT/người và gửi số điện thoại 0866.797.326 để liên lạc đón khách đến 09 giờ cùng ngày, Lý Văn K điện thoại nhờ Vương Thị D1 tìm xe đón 06 khách Trung Quốc tại H3 đưa tới huyện Đ1, tỉnh L để xuất cảnh trái phép về Trung Quốc, tiền công là 1700 NDT/người và gửi cho Vương Thị D1 số điện thoại 0866.797.326 để liên hệ đón khách. Vương Thị D1 điện thoại bảo Tạ Tiến T tìm 01 xe ô tô 07 chỗ đến Hà Nội đón 06 người Trung Quốc đưa lên huyện Đ1, tỉnh L để họ về Trung Quốc. Sau đó, Tạ Tiến T thông báo cho Vương Thị D1 biết không tìm được xe 07 chỗ, chỉ có 02 xe 04 chỗ; Vương Thị D1 đồng ý và thống nhất trả tiền công là 18.000.000 đồng/chuyến đồng thời cho Tạ Tiến T số điện thoại 0866.797.326 để liên lạc đón khách. Đến 11 giờ, Tạ Tiến T gọi điện cho Ngô Phúc N3 bảo đến phòng trọ của mình và rủ Ngô Phúc N3 cùng đi đón khách Trung Quốc, Ngô Phúc N3 đồng ý. Tạ Tiến T bảo Ngô Phúc N3 gọi vào số 0866.797.326 để đón khách thì nghe thấy giọng đàn ông nói tiếng Việt Nam (không rõ họ tên, địa chỉ), qua trao đổi được biết địa điểm đón khách là khu vực tòa nhà Ruby gần cầu Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội.

Khoảng 12 giờ, Tạ Tiến T gọi điện cho Mai Văn T1 đến phòng trọ của Tạ Tiến T để cùng nhau đi Hà Nội đón khách để đưa đến L. Khi Mai Văn T1 đến nơi thì thấy Tạ Tiến T, Ngô Phúc N3 và Vương Thị D1. Sau khi Tạ Tiến T bảo Mai Văn T1 cùng đến khu vực tòa nhà Ruby gần cầu Phù Đổng để đón 06 người Trung Quốc, tiền công là 2.000.000 đồng; Mai Văn T1 hỏi Vương Thị D1 những khách Trung Quốc này có giấy tờ xuất cảnh không thì Vương Thị D1 nói chỉ có một, hai người có giấy tờ.

Mai Văn T1 điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Accent BKS 98A- 326.18, Tạ Tiến T cùng Ngô Phúc N3 điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Soluto BKS 98A-366.54 cùng đi đón khách. Đợi khoảng 10 phút thì thấy 01 xe ô tô taxi 04 chỗ (không rõ biển số, không rõ thông tin người lái xe) đưa 05 khách Trung Quốc đến, Ngô Phúc N3 cho 02 khách lên xe của Tạ Tiến T và 03 khách lên xe của Mai Văn T1.

Khoảng hơn 23 giờ ngày 07/5/2021, Mai Văn T1 nhận được điện thoại từ số 0853.651.566 cho biết đang trên đường vào đón khách Trung Quốc nên Mai Văn T1 đã lái xe chở 05 người Trung Quốc đi từ cây xăng xã Đ2, huyện L4 ra hướng thành phố L khoảng 200m và dừng đỗ xe tại trước cửa một cửa hàng đã đóng cửa để đợi. Khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày, Mai Văn T1 bị lực lượng chức năng kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 07/3/2022, Tòa án nhân dân tỉnh L đã căn cứ điểm c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 46; các Điều 17, 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Tạ Tiến T và Mai Văn T1.

Tuyên bố bị cáo Tạ Tiến T và Mai Văn T1 phạm tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”.

Tuyên bố bị cáo Dương Tất T5 phạm tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép” Xử phạt bị cáo Tạ Tiến T 05 (năm) 09 (chín) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt là ngày 08-5-2021.

Xử phạt bị cáo Mai Văn T1 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt là ngày 08-5-2021.

Xử phạt bị cáo Dương Tất T5 04 (bốn). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt là ngày 20-4-2021.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, hóa giá, nộp ngân sách Nhà nước ½ giá trị của 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, Số loại: Accent, màu sơn: trắng, loại xe: Ô tô con, dung tích xi lanh 1368, số chỗ ngồi 05, năm sản xuất 2020, tự trọng 1080, BKS: 98A-326.18, số máy: G4LCLF702637, số khung LUA141BALN038011, xe cũ đã qua sử dụng (không có đồ vật, tài sản gì trên xe);

kèm theo: 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, số BB 200435007 của Mai Văn T1; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô BKS 98A- 326.18, số: No: KD 3253320; 01 (một) bản phô tô giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 98A- 32618; số 058578.

Tịch thu, hóa giá, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu KIA, số loại: SOLUTO, màu sơn: trắng, loại xe ô tô con, dung tích xi lanh 1368, số chỗ ngồi 05, Tự trọng: 1040, năm sản xuất: 2020, Biển kiểm soát: 98A- 336.54, số máy: G4LCL1051223, số khung: RNYAC41A4LC190115, cũ đã qua sử dụng (không có đồ vật, tài sản gì trên xe); kèm theo: 01 (một) giấy chứng nhận điện tử bảo hiểm tự nguyện xe ô tô số 2003000054288/EOTOTN.4.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt và tội danh đối với các bị cáo khác, biện pháp tư pháp, các xử lý vật chứng khác, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14, 15/03/2022, các bị cáo Mai Văn T1 và Dương Tất T5 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10/3/2022, Ngân hàng Thương mại cổ phần T4 có đơn kháng cáo phần xử lý tang vật của vụ án là tài sản thế chấp của Ngân hàng TMCP T4, đề nghị trả lại Ngân hàng TMCP T4 01 xe ô tô mang nhãn hiệu KIA, màu trắng; biển kiểm soát 98A-336.54 do Phòng Cảnh sát Giao thông - Công an tỉnh B cấp ngày 14/9/2020 mang tên ông Tạ Tiến T để xử lý thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

- Ngày 15/3/2022, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm, hoàn trả lại tài sản là xe ô tô nhãn hiệu Huyndai, số loại Accent, màu sơn trắng, biển kiểm soát 98A-32618, Giấy chứng nhận đăng ký xe số 058578 do Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh B cấp ngày 27/7/2020 đứng tên ông Mai Văn T1, cho Ngân hàng VIB xử lý thu hồi nợ theo quy định.

Ngày 29/3/2022, bị cáo Dương Tất T5 có đơn xin rút kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 47/2022/HSPT- QĐ ngày 20/7/2022 đối với bị cáo Dương Tất T5.

Ngày 08/4/2022 bị cáo Mai Văn T1 có đơn xin rút kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 51/2022/HSPT - QĐ ngày 03/8/2022 đối với bị cáo Mai Văn T1.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/7/2022, các bị cáo Tạ Tiến T, Mai Văn T1 trình bày như sau:

- Về hành vi phạm tội như tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt là đúng do đó bị cáo Mai Văn T1 xin rút đơn kháng cáo; việc các bị cáo không kháng cáo về xử lý vật chứng là do không hiểu biết pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị cáo xin trình bày về việc vay tiền của Ngân hàng để mua ô tô và sau đó thế chấp ô tô như sau:

- Bị cáo Tạ Tiến T đã thế chấp 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 98A-336.54 cho Ngân hàng TMCP T4 để vay số tiền 394.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng kể từ ngày 17/9/2020 đến ngày 16/9/2027, người vay có trách nhiệm thanh toán nợ gốc và nợ lãi vào ngày 10 hàng tháng, lần cuối Tạ Tiến T thanh toán nợ là ngày 25/12/2020. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giao chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 98A-336.54 cho Ngân hàng TMCP T4 để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

- Bị cáo Mai Văn T1 trình bày: Ngày 28/7/2020, vợ chồng Mai Văn T1 và chị Vy Thị Sinh ký hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam số tiền 370.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng kể từ ngày 29/7/2020 đến ngày 28/7/2027. Tài sản đảm bảo khoản vay nêu trên là chiếc xe ôtô HYUNDAI ACCENT, biển kiểm soát 98A-326.18; Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giao toàn bộ chiếc xe otô HYUNDAI ACCENT, biển kiểm soát 98A-326.18 cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Người đại diện của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam trình bày: Ngày 28/7/2020, vợ chồng anh Mai Văn T1 và chị Vy Thị Sinh ký hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng số tiền 370.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng kể từ ngày 29/7/2020 đến ngày 28/7/2027. Tài sản đảm bảo khoản vay nêu trên là chiếc xe ôtô HYUNDAI ACCENT, biển kiểm soát 98A-326-18; Hợp đồng thế chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận được thông báo của Công an tỉnh L, Ngân hàng mới biết Mai Văn T1 sử dụng tài sản thế chấp vào việc phạm tội nên ngày 16/8/2021, Ngân hàng đã ra Quyết định và thông báo cho chị Vy Thị Sinh về việc thu hồi nợ trước hạn; hiện nay dư nợ gốc còn lại là 330.364.000 đồng và 36.000.000 đồng tiền lãi. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 5 Thông tư liên tịch số 06/1998; Điều 299 và khoản 5 Điều 323 của Bộ luật Dân sự và Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội để trả lại Ngân hàng chiếc xe ô tô nói trên.

- Người đại diện của Ngân hàng TMCP T4 (TP bank) trình bày: Ngày 16/9/2020, anh Tạ Tiến T và Ngân hàng đã ký kết Hợp đồng cho vay kiêm thế chấp xe ô tô số 368/2020/HDTD/BNH/01; theo đó anh Tạ Tiến T đã thế chấp 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 98A-336.54 cho Ngân hàng để vay số tiền 394.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng kể từ ngày 17/9/2020 đến ngày 16/9/2007, người vay có trách nhiệm thanh toán nợ gốc và nợ lãi vào ngày 10 hàng tháng, lần cuối anh Tạ Tiến T thanh toán nợ là ngày 25/12/2020. Việc Tạ Tiến T sử dụng tài sản thế chấp để phạm tội Ngân hàng không biết. Sau khi nhận được Thông báo của Công an tỉnh L, ngày 18/8/2021, Ngân hàng ra Thông báo thu hồi nợ trước hạn đối với anh Tạ Tiến T. Tính đến ngày 05/3/2021, anh Tạ Tiến T còn nợ Ngân hàng 380.095.227 đồng tiền gốc và 44.576.716 đồng tiền lãi trong hạn, 11.958.047 đồng tiền lãi quá hạn. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 14 Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội, Điều 15 Thông tư liên tịch số 39/2016 của Ngân hàng Nhà nước; các Điều 119, 293, 297, 298, 299, 301, 307, 317, 318, 319, 321 của Bộ luật Dân sự; bàn giao xe ô tô trên cho Ngân hàng TP bank để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự phiên tòa có quan điểm về vụ án như sau:

Căn cứ các Điều: 331, 332, 334 Bộ luật Tố tụng hình sự Kháng cáo của các bị cáo và của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là hợp lệ đủ điều kiện để xem xét theo thủ tục phúc phẩm.

Việc chấp hành pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xét kháng cáo của các bị cáo. Ngày 29/3/2022 bị cáo Dương Tất T5 đã rút kháng cáo Tòa án đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 47 HSPT - QĐ ngày 20/7/2022.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/7/2022, bị cáo Mai Văn T1 xác nhận đã có đơn xin rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa phúc thẩm. Tòa án đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 51 HSPT – QĐ ngày 03/8/2022.

Xét kháng cáo của ngân hàng VIB và ngân hàng TP bank thấy: Xe ô tô BKS 98A-32618, Giấy chứng nhận mang số 058578 mang tên Mai Văn T1 và xe ô tô BKS 98A-336.54 mang tên Tạ Tiến T là phương tiện bị cáo Thanh, bị cáo Thịnh dùng vào việc phạm tội nên theo quy định tại Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS thì bị tịch thu hóa giá sung công. Tuy nhiên: Đối với xe ô tô BKS 98A-326.18 là tài sản chung của vợ chồng bị cáo T. Trước đó, Mai Văn T1 và vợ là Vy Thị S đã lập hợp đồng thế chấp chiếc xe này để đảm bảo cho khoản vay chung của vợ chồng tại ngân hàng VIB (theo hợp đồng thế chấp số 92030420 ngày 28/7/2020 để đảm bảo cho khoản vay 370.000.000 đồng mục đích vay là để mua chính chiếc xe ô tô trên).

Đối với xe ô tô BKS 98A-336.54 là tài sản của T. Trước đó, Thịnh đã lập hợp đồng thế chấp chiếc xe này để đảm bảo cho khoản vay tại ngân hàng TP bank (Hợp đồng thế chấp số 368/2020 ngày 16/9/2020 để đảm bảo khoản vay 394.000.000 đồng mục đích vay để mua chính chiếc xe trên).

Như vậy, Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp giữa các bị cáo với ngân hàng có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật. Thời điểm ký kết hợp đồng các bên hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung thỏa thuận phù hợp, không vi phạm điều cấm. Hợp đồng được lập đúng trình tự, thủ tục (được công chứng và được đăng ký giao dịch bảo đảm) theo đúng quy định. Hợp đồng đã có hiệu lực và được pháp luật bảo vệ. Việc các bị cáo dùng chiếc xe trên vào việc phạm tội thì ngân hàng không biết nên ngân hàng không có lỗi. Vì các bị cáo vi phạm về nghĩa vụ trả nợ và vi phạm về quản lý, sử dụng xe ô tô nên ngân hàng có quyền chuyển khoản nợ của các bị cáo thành nợ xấu và yêu cầu trả nợ trước hạn. Khi các bị cáo không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có toàn quyền trong việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi khoản nợ. Bên cạnh đó theo quy định tại Điều 14 Nghị quyết 42/2017 thì “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu”. Bản án sơ thẩm tuyên tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước đối với xe ô tô BKS 98A-336.54 của Thịnh; tuyên tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước ½ xe ô tô BKS 98A-32618 của bị cáo Thanh là chưa phù hợp.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của người có quyền lợi liên quan. Sửa phần xử lý vật chứng của bản án sơ thẩm theo hướng tuyên trả chiếc xe ô tô BKS 98A-326.18 cho ngân hàng VIB và trả chiếc xe BKS 98A-336.54 cho ngân hàng TP bank để xử lý nợ theo quy định. Sau đó nếu còn thừa thì nộp ngân sách nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về việc vắng mặt các bị cáo bị cáo Tạ Tiến T và Mai Văn T1 Hội đồng xét xử thấy như sau:

Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 14 và 15/03/2022, các bị cáo Mai Văn T1 và Dương Tất T5 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Tạ Tiến T không kháng cáo nhưng kháng cáo của Ngân hàng TMCP T4 có liên quan đến bị cáo.

Do bị cáo Dương Tất T5 Và Mai Văn T1 đã có đơn xin rút kháng cáo. Tòa án đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo.

Về việc vay tiền của Ngân hàng để mua ô tô và sau đó thế chấp ô tô: Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/7/2022, Hội đồng xét xử cũng đã xét hỏi và làm rõ ý kiến của của các bị cáo Tạ Tiến T, Mai Văn T1 về vấn đề có liên quan đến vật chứng trong vụ án là hai chiếc ô tô như đã nêu ở trên, cả hai bị cáo Tạ Tiến T và Mai Văn T1 đều xác nhận có việc đã ký hết hợp đồng cho vay thế chấp xe ô tô và cho đến nay vẫn chưa trả được nợ gốc và lãi. Hiện nay các bị cáo đã đi thi hành án. Do đó không cần thiết phải có mặt của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay.

[3]. Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hội đồng xét xử thấy như sau:

- Xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, BKS 98A-326.18, Giấy chứng nhận đăng ký xe số 058578 do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 27/7/2020 đứng tên Mai Văn T1. (Theo công văn ngày 01/7/2021 của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, chi nhánh Hà Đông, PGD Xa La gửi cơ quan An ninh Điều tra, Công an tỉnh L thì Mai Văn T1 và bà Vy Thị S đã vay vốn ngân hàng để mua chiếc xe Xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, BKS 98A-326.18 tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, chi nhánh Hà Đông, PGD Xa La) ngày 28/7/2020, Mai Văn T1 và bà Vy Thị Sinh thế chấp xe ô tô trên cho Ngân hàng VIB; theo VIB theo Hợp đồng thế chấp phương tiện vận tải số 922030.20 ngày 28/07/2020, giữa ngân hàng VIB và Mai Văn T1, Vy Thị Sinh số tiền gốc là 370.000.000đ, tổng giá trị của tài sản biến động theo biên bản định giá là 465.000.000đ và ngân hàng VIB có toàn quyền xử lý tài sản để thu hồi nợ vay. Trước thời điểm phạm tội, xe ô tô trên đã được thế cho Ngân hàng VIB, các thủ tục nhận thế chấp, đăng ký giao dịch bảo tài sản đã thực hiện đầy đủ. Việc bị cáo T1 dùng chiếc xe này để phạm tội, Ngân hàng VIB hoàn toàn không biết.

- Xe ô tô nhãn hiệu KIA, BKS 98A-336.54, Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 061451 do Phòng CSGT Công an tỉnh B cấp ngày 14/9/2020 mang tên Tạ Tiến T. Trước đó, ngày 16/9/2020, giữa Tạ Tiến T và Ngân hàng TMCP T4 (TPBank) đã ký hết hợp đồng cho vay kiêm thế chấp xe ô tô số 368/2020/HDTD/BNH/01 và Hợp đồng cho vay số 368/2020/BNH/02 để vay số tiền là 394.000.000đ. Tạm tính đến ngày 09/3/20202, Tạ Tiến T còn nợ TP Bank số tiền 436.793.162đ (trong đó nợ gốc là 380.095.227đ, nợ lãi là 56.697.935đ). Việc bị cáo Thịnh dùng xe ô tô trên để phạm tội, ngân hàng TPBank hoàn toàn không biết.

Xét: Nguồn tiền để các bị cáo mua ô tô là phần lớn của Ngân hàng: 370 triệu triệu đồng là ông tô của Mai Văn T1; 394 triệu đồng là của bị cáo Tạ Tiến T. Như vậy, nếu không có tiền do Ngân hàng cho vay thị các bị cáo không thể mua được ô tô. Các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng là những hợp đồng dân sự hợp pháp, được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, Hợp đồng thế chấp tài sản đã được đăng ký giao dịch bảo đảm. Hiện các Hợp đồng này đều đang có hiệu lực pháp luật, chưa có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ.

Theo quy định của pháp luật và thỏa thuận tại Hợp đồng thế chấp: Tài sản bảo đảm trong thời gian ngân hàng nhận thế chấp thuộc quyền định đoạt của ngân hàng đến khi các bên tất toán khoản vay, cụ thể là khi bên vay đã hoàn thành nghĩa vụ trả toàn bộ nợ gốc, lãi và các chi phí phát sinh cho ngân hàng. Khi đó tài sản bảo đảm mới được giải chấp. Mặt khác, các tài sản đảm bảo là tài sản hình thành từ vốn vay của ngân hàng, tiền trả cho bên bán được ngân hàng giải ngân trực tiếp vào tài khoản của bên bán thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng.

Trong vụ án này, ngân hàng không thể biết việc phạm tội của bị cáo, ngân hàng không có lỗi, nguồn tiền mua tô tô phần lớn là của. Ngân hàng nên là người thứ ba ngay tình, do đó, cần phải được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử thấy cũng cần xem xét thực tế: Đây là tang vật của vụ án hình sự, do đó để đảm bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp của phía Ngân hàng đồng thời có thể thực hiện được yêu cầu xử lý phương tiện phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự thì cần giao cho Cục thi hành án tỉnh L tổ chức bán đấu giá hai chiếc xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, BKS 98A-326.18 và xe ô tô nhãn hiệu KIA, BKS 98A-336.54 số tiền thu được trước hết trả cho ngân hàng TMCP T4 (TP Bank), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) cả nợ gốc và nợ lãi theo hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, phần còn lại (nếu có) thì tịch thu xung công quỹ nhà nước. Do đó, cần chấp nhận một phần kháng cáo của Ngân hàng VIB và Ngân hàng Tp bank.

Về án phí: Do kháng cáo của ngân hàng TMCP T4 (TP Bank), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên; Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, 357 BLTTHS,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 15 Thông tư liên tịch số 39/2016 của Ngân hàng Nhà nước; các Điều 119, 293, 297, 298, 299, 301, 307, 317, 318, 319, 321 Bộ luật Dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ngân hàng TMCP T4 (TP Bank), Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB).

Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 07/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

1. Giao cho Cục thi hành án tỉnh L tổ chức bán đấu giá xe ô tô nhãn hiệu KIA, số loại: SOLUTO, màu sơn: trắng, loại xe ô tô con, dung tích xi lanh 1368, số chỗ ngồi 05, Tự trọng: 1040, năm sản xuất: 2020, Biển kiểm soát: 98A- 336.54, mang tên ông Tạ Tiến T số máy: G4LCL1051223, số khung: RNYAC41A4LC190115, cũ đã qua sử dụng (không có đồ vật, tài sản gì trên xe); kèm theo: 01 (một) giấy chứng nhận điện tử bảo hiểm tự nguyện xe ô tô số 2003000054288/EOTOTN.4. Số tiền thu được trước hết trả cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) theo hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) ngày 29/7/2020. Phần còn lại (nếu có) thì tịch thu xung công quỹ nhà nước.

2. Giao cho Cục thi hành án tỉnh L tổ chức bán đấu giá xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, Số loại: Accent, màu sơn: trắng, loại xe: Ô tô con, dung tích xi lanh 1368, số chỗ ngồi 05, năm sản xuất 2020, tự trọng 1080, BKS: 98A-326.18, số máy: G4LCLF702637, số khung: RLUA141BALN038011, xe cũ đã qua sử dụng (không có đồ vật, tài sản gì trên xe); kèm theo: 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô, số BB 200435007 của Mai Văn T1; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô BKS 98A-32618, số: No: KD 3253320; 01 (một) bản phô tô giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 98A - 32618; số 058578. Số tiền thu được trước hết trả cho Ngân hàng TMCP T4 (TP Bank) theo hợp đồng tín dụng vay Ngân hàng TMCP T4 (TP Bank) ngày 17/9/2020. Phần còn lại (nếu có) thì tịch thu xung công quỹ nhà nước.

3. Về án phí: Ngân hàng TMCP T4 (TP Bank) Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) không phải chịu án phí phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất, nhập cảnh trái phép số 666/2022/HSPT

Số hiệu:666/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về