Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài số 23/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH B

BẢN ÁN 23/2023/HS-PT NGÀY 03/03/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI

Ngày 03/3/2023 tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh B và điểm cầu trung tâm trụ sở Toà án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 50/2023/TLPT-HS ngày 30/01/2023 đối với bị cáo L Đắc Q, do có kháng cáo của bị cáo L Đắc Q đối với bản án hình sự sơ thẩm số 83/2022/HS-ST ngày 19/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B.

- Bị cáo có kháng cáo:

L Đắc Q, sinh năm 1966, tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn Việt Thắng Núi, xã Đồng Phúc, huyện Y, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: L Đắc L (đã chết) và con bà Vũ Thị S (đã chết); Vợ, Vũ Thị L (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2002;

- Tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân:

+ Bản án số 11/HSST ngày 14/6/1988, Toà án dân dân huyện Y xử phạt L Đắc Q 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/11/1990.

+ Bản án số 62/HSST ngày 14/4/1994, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc xử phạt L Đắc Q 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”.

+ Bản án số 187/HSPT ngày 16/11/1994, Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc xử phạt L Đắc Q 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, tổng hợp hình phạt của bản án số 62/HSST ngày 14/4/1994. Buộc Q phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 08 năm tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2000.

+ Q định xử phạt hành chính số 241 ngày 24/4/2001, UBND xã Đồng Phúc xử phạt hành chính L Đắc Q 200.000 đồng về hành vi gây rối trật tự.

Bị cáo bị bắt truy nã, tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/7/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt tại phiên tòa) Trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3/2014, L Đắc Q gọi điện thoại cho một người đàn ông tên H là người Việt gốc Hoa sống ở Trung Quốc, (Q quen biết H từ năm 2011 khi Q làm nghề lái xe ôm tại khu vực chợ Móng Cái, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh), nhờ H tìm việc làm. H nói có thể tìm được công việc làm ở lò gạch bên Trung Quốc cách thành phố Móng Cái khoảng 50km, tiền lương hưởng theo sản phẩm, khoảng từ 07 triệu đến 09 triệu đồng/ tháng, không mất tiền ở, tự lo tiền ăn và chi phí đi lại. H bảo Q tìm thêm khoảng 3-4 người để đủ một tổ làm, mỗi người sang làm phải trả cho H 400NDT tương đương khoảng 1.300.000 đồng, khi nào đi đến thành phố Móng Cái thì gọi điện cho H, H sẽ đón, đưa vượt biên sang Trung Quốc và đưa đến chỗ làm. Trong tháng 4/2014, Q đã 02 lần tổ chức đưa 05 người vượt biên sang Trung Quốc lao động, cụ thể là:

Lần thứ nhất: Khoảng cuối tháng 3/2014, Q đến nhà L Đắc Q và đến nhà Dương Văn Ch để rủ sang Trung Quốc lao động. Khi đến nhà Ch, Q gặp Lương Văn V, sinh năm 1971 người cùng thôn với Ch (Lương Văn V đã chết năm 2019). Q nói cho Q, Ch, V biết công việc, tiền công bên Trung Quốc như H đã nói, chi phí đi lại hết 03 triệu đồng (Q dự tính tiền trả cho H là 1,3 triệu đồng, tiền xe hết khoảng 700.000 đồng, 01 triệu đồng là tiền để mua đồ dùng và tiền ăn), khi nào đi thì Q sẽ thông báo. Sau khi Q, V, Ch đồng ý đi, Q gọi điện thông báo cho H và hẹn ngày 01/4/2014 sẽ đi. H đồng ý và gửi cho Q số điện thoại của người lái đò ở sông Ka L, thành phố Móng Cái, đồng thời dặn Q khi nào đến thành phố Móng Cái thì gọi điện cho người này đón, đưa vượt biên qua sông sang Trung Quốc, đến Trung Quốc H sẽ đón và đưa đến chỗ làm. Trao đổi với H xong, Q gọi điện thông báo cho Q, V, Ch tập trung ở nhà Q vào ngày 01/4/2014 để đi sang Trung Quốc lao động. Khi Q, Ch, V đến nhà, Q đã nhờ L Văn L, sinh năm 1972 ở cùng thôn và Dương Văn Đ, sinh năm 1960 là bố đẻ của Ch đưa mọi người đến khu vực trạm thu phí Phả Lại- quốc lộ 18 để đón xe khách đi thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 02 giờ ngày 02/4/2014, Q và mọi người đến thành phố Móng Cái, do chưa thể vượt biên nên Q đã thuê phòng trọ cho mọi người nghỉ ngơi. Tại phòng trọ Q thu của V 03 triệu đồng, Q 02 triệu đồng và của Ch 2,4 triệu đồng (đã trừ 600.000 đồng tiền xe do Ch trả). Khoảng 05 giờ ngày 02/4/2014, Q gọi điện thoại cho người lái đò (số điện thoại mà H đã gửi) thì một người phụ nữ nghe điện và hướng dẫn Q đưa mọi người xuống bờ sông Ka L gần khu vực Đồn Biên phòng số 5. Theo hướng dẫn, Q thuê xe ôm đưa mọi người xuống điểm hẹn thì có một người phụ nữ lái đò từ phía bên Trung Quốc sang đón và đưa mọi người qua sông sang Trung Quốc. Khi đến Trung Quốc, Q gọi điện cho H đón, H đến và đưa mọi người đến một nhà ở gần bờ sông Ka L, Q đưa cho H 05 triệu đồng tiền công tìm việc. Khoảng 02 ngày sau, H thuê xe đưa mọi người đến làm việc tại một lò gạch tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Khi đến nơi, thấy công việc vất vả nên V không làm mà quay về nhà luôn. Ch làm đến khoảng ngày 17/4/2014 thì về Việt N; Q làm đến tháng 7/2014 thì về Việt N còn Q ở lại Trung Quốc.

Lần thứ 2: Trong thời gian lao động, ông chủ lò gạch nói với Q hiện lò gạch đang thiếu người, nếu có người nào thì đưa sang làm. Q gọi điện thoại về cho Nguyễn Khắc Th ở cùng thôn với Q, khi Th nghe điện thì có Triệu Văn N cũng ở đó, Q rủ Th và N sang Trung Quốc lao động, Q cũng nói với Th, N về công việc làm tại lò gạch, tiền lương hưởng theo sản phẩm, chi phí đi lại hết 2,5 triệu đồng. Th và N đồng ý đi. Q dặn khi nào đi thì cứ xuống đến thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh thì gọi điện cho Q đến đón và đưa đến chỗ làm. Ngày 29/4/2014, Th và N nhờ người đưa đến trạm thu phí Phả Lại- quốc lộ 18 rồi đi xe khách xuống thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 16 giờ cùng ngày, Th và N đến nơi, Th gọi điện cho Q đến đón. Q bảo mọi người đợi, Q sẽ sang đón. Thấy Q về thành phố Móng Cái đón người, Q xin đi về cùng để thăm vợ con. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Q và Q về đến thành phố Móng Cái, do trời đã tối nên Q cùng mọi người thuê nhà trọ ngủ tại thành phố Móng Cái, Th và N mỗi người nộp cho Q 02 triệu đồng. Buổi sáng ngày 30/4/2014, tương tự như lần thứ nhất, Q đưa mọi người vượt biên qua sông Ka L sang khu vực tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc làm việc. Th và N làm được khoảng 01 tháng thì về Việt N.

Q khai toàn bộ số tiền thu của mọi người, Q đã trả cho H, trả tiền ăn và mua đồ dùng cho mọi người, không được hưởng lợi. Sau khi mọi người về Việt N, Q tiếp tục ở lại Trung Quốc làm việc đến ngày 28/7/2022 thì về Việt N, khi về đến Trạm biên phòng cửa khẩu Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng bắt giữ. Trong thời gian làm việc bên Trung Quốc, Q không biết bản thân đã bị khởi tố và truy nã.

Tại cơ quan điều tra L Đắc Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 83/2022/HSST ngày 19/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B đã xét xử và quyết định:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ: Điểm b khoản 2, Điều 349, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt: Bị cáo L Đắc Q 05 (Năm) năm 06 (S) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 28/7/2022.

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi cấp sơ thẩm xét xử xong, ngày 27/12/2022, bị cáo L Đắc Q có đơn kháng cáo với nội dung: đề nghị xem xét xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo trình bày: Án sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Tuy nhiên, mức hình phạt Tòa sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là cao, bị cáo có bố đẻ là ông L Đắc L được tặng thưởng huân chương, gia đình bị cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện VKSND tỉnh B thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo L Đắc Q. Đ nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo L Đắc Q nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trong tháng 4/2014, L Đắc Q, sinh năm 1966 ở thôn Việt Thắng Núi, xã Đồng Phúc, huyện Y, tỉnh B đã 02 lần tổ chức đưa 05 người tại xã Đồng Phúc và xã Yên Lư thuộc huyện Y, tỉnh B vượt biên trái phép sang Trung Quốc lao động bất hợp pháp. Lần 1: 03 người; Lần 2: 02 người.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

Bản án sơ thẩm sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của bị cáo, đánh giá toàn bộ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đã xử phạt bị cáo L Đắc Q 05 (Năm) năm 06 (S) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo L Đắc Q thì thấy:

[3.1] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử về hình sự, nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội.

- Xét tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự: Bị cáo xuất thân từ gia đình thuần nông, thành khẩn khai báo, không vì mục đích vụ lợi mà chỉ muốn giúp bạn bè, người thân có công ăn việc làm. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3.2] Bị cáo Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa cấp phúc thẩm bị cáo trình bày gia đình bị cáo đã nộp tài liệu về việc bố bị cáo được tặng thưởng huân chương kháng chiến, tuy nhiên không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện việc gia đình bị cáo đã nộp tài liệu này, mà chỉ nộp huy hiệu Đảng của bố bị cáo, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo L Đắc Q như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo bị cáo L Đắc Q không được chấp nhận nên bị cáo Q phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo L Đắc Q. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b khoản 2, Điều 349, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 BLTTHS và Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt: Bị cáo L Đắc Q 05 (Năm) năm 06 (S) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 28/7/2022.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Buộc bị cáo L Đắc Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài số 23/2023/HS-PT

Số hiệu:23/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về