Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài (sang Campuchia) số 28/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI

Ngày 29/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2023/TLST-HS ngày 15/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:

1/ Nguyễn Văn H, sinh ngày 02 tháng 9 năm 2002, tại: xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn 6, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1974 và bà Vũ Thị N, sinh năm 1982; chưa có vợ, con.

Tiền án: không;

Tiền sự:

- Ngày 03/8/2021, bị UBND xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe người khác”, phạt tiền 3.000.000đ; ngày 28/12/2021 Nguyễn Văn H đã nộp phạt đủ số tiền trên.

- Ngày 10/01/2022 bị UBND xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với lý do “nghiện và sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn 03 tháng từ ngày 10/01/2022 đến ngày 10/4/2023.

Nhân thân: Ngày 17/03/2023, bị Công an huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Qua lại biên giới quốc gia mà không làm giấy tờ thủ tục xuất nhập cảnh”, phạt tiền 3.000.000đ; ngày 20/02/2023, Nguyễn Văn H đã nộp phạt đủ số tiền trên.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/6/2023; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; (có mặt).

2/ Trần Văn T, sinh ngày 06 tháng 3 năm 2001; tại: Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn X, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Cao (đã chết) và bà Trần Thị Lụa, sinh năm 1974; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/6/2023; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Mai Chấn T1 - Sinh năm 2002; địa chỉ: Thôn 3, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

* Người làm chứng: Anh Vũ Văn Tr - Sinh năm 2004; địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 6 năm 2022, qua mạng xã hội Nguyễn Văn H đã quen biết một người đàn ông tên là Kiên (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), quê ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa và được Kiên rủ sang Campuchia để làm việc. Giữa tháng 6 năm 2022, Kiên đã hướng dẫn cho H vượt biên trái phép sang Campuchia theo hình thức đi đò qua sông ở khu vực biên giới của tỉnh An Giang.

Khoảng ngày 20/6/2022, khi đang ở Campuchia, thông qua mạng xã hội facebook Nguyễn Văn H đã liên lạc với Trần Văn T và nói cho T biết công việc tại Campuchia là làm Casino (nạp tiền game cho khách và rút tiền ra) hoặc ngồi máy tính tìm khách đặt mua hàng qua app shoppee, lazada, lương 1000 USD/tháng. H nói với T muốn sang Campuchia thì bắt xe vào thành phố Hồ Chí Minh rồi H sẽ sắp xếp người đưa sang Campuchia theo đường tiểu ngạch tức là đi chui (trái phép), không cần phải mang bất cứ giấy tờ tùy thân gì, không cần hộ chiếu, chi phí đi đường sẽ được tính vào tiền lương sau này, T đồng ý. Sau đó, H cho Kiên số điện thoại của T để Kiên kết bạn và gửi vé máy bay điện tử qua zalo của T. Theo chỉ dẫn của Kiên, ngày 26/6/2022, T đi máy bay từ Thanh Hóa vào thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến thành phố Hồ Chí Minh, liên lạc với Kiên không được T nhắn cho H thì được H nói thuê nhà nghỉ ngủ hôm sau sẽ có người đón sang Campuchia. Tuy nhiên, ngày hôm sau vẫn chưa có người đón, T gọi cho H thì H nói là nhà xe chưa đủ người, bảo T cứ ở nhà nghỉ đợi. Đến ngày 28/6/2022, có người (không biết tên, địa chỉ cụ thể) của Kiên đến đón T di chuyển đến bến xe ở Châu Đốc, An Giang, rồi được một người khác dẫn vượt biên qua đường tiểu ngạch, đi qua sông sang Campuchia không làm thủ tục xuất cảnh theo quy định. Sau đó, T ký hợp đồng làm việc 06 tháng với ông chủ người Tr Quốc. Đến ngày 30/12/2022, hết hợp đồng T về Việt Nam thông qua người môi giới (không biết tên tuổi cụ thể) đi qua đường sông, không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định.

Khoảng đầu tháng 8 năm 2022, Nguyễn Văn H đang ở Campuchia đã liên lạc với Mai Chấn T1, sinh năm 2002; trú tại thôn 3, xã Nga T1, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (là bạn của H và T) và Vũ Văn Tr, sinh năm 2004, trú tại xã Nga Tân, huyện Nga Sơn, đã nói cho T1 và Tr biết công việc ở Campuchia là ngồi máy tính tìm kiếm khách hàng để giới thiệu, đặt mua hàng qua app shoppe, lazada, lương khoảng 20 triệu/tháng và cách đi sang Campuchia là đi chui không cần làm thủ tục gì (vượt biên trái phép), tiền đi đường do H trả, sang làm việc rồi tính 2 sau. T1 và Tr đồng ý. Sau đó, H nói cho T biết việc T1 và Tr sẽ sang Campuchia lao động. T làm ở bộ phận tuyển dụng nên đã báo lại cho ông chủ (người Tr Quốc) biết và được người này giao nhiệm vụ đặt vé cho T1 và Tr. T yêu cầu H gửi căn cước công dân của T1 và Tr để đặt vé nên H đã hướng dẫn T1 và Tr chụp ảnh căn cước công dân sau đó H gửi cho T. Sau khi đặt được vé, T gửi hình ảnh vé điện tử cho H để gửi cho T1 và Tr. Ngày 14/8/2022, T1 và Tr bay từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh thì H và T thường xuyên liên lạc, hướng dẫn T1 và Tr di chuyển, đồng thời công ty của T cũng cho người đến đón T1 và Tr đưa đến biên giới thuộc địa phận tỉnh An Giang, rồi đưa xuống xuống máy đi qua sông sang Campuchia. Rạng sáng 16/8/2022, T1 và Tr đã đến Campuchia và ký hợp đồng làm việc 09 tháng tại công ty của T đang làm việc. Sau khi đưa T1 và Tr sang Campuchia, ngày 18/8/2022, Nguyễn Văn H đã được ông chủ của T cho số tiền là 3.800USD và H đã cho lại T 800USD. Số tiền này các bị can đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 13/01/2023, khi chưa hết hạn hợp đồng Mai Chấn T1 về Việt Nam. Quá trình từ Campuchia về Việt Nam, T1 nhờ một người lạ (không biết tên, địa chi) dẫn đi theo đường sông sang địa phận tỉnh An Giang, không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định. Ngày 04/6/2023, T1 đến cơ quan điều tra tố cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T như đã nêu trên.

Sau khi hết hợp đồng làm việc tại Campuchia, ngày 15/5/2023, Vũ Văn Tr đã về Việt Nam theo đường tiểu ngạch, đi qua sông sang địa phận tỉnh An Giang, không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định. Ngày 04/6/2023, Tr đến cơ quan điều tra khai báo về việc Nguyễn Văn H và Trần Văn T tổ chức cho Tr và T1 trốn sang Campuchia lao động như đã nêu trên Sau khi bị phát hiện các bị cáo đã ra đầu thú và thành khẩn khai báo hành vi phạm tội.

Tại Cơ quan điều tra T1 khai báo quá trình làm việc, do không đáp ứng được công việc, tháng 01/2023, T1 đã xin về Việt Nam trước thời hạn hợp đồng nhưng công ty yêu cầu T1 nộp số tiền 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) tiền vi phạm hợp đồng thì mới cho về nên T1 đã liên hệ với ông Mai Chấn Bảy (bố của T1) gửi tiền cho T1 thông qua tài khoản số 0866092X thuộc Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) của một người tên Đức làm cùng công ty nhưng khác tổ (T1 không biết thông tin cá nhân của người này). Sau đó, ông Bảy đã nhờ anh Hà Văn Chung (là anh họ của T1) chuyển khoản số tiền 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng) vào tài khoản trên. Quá trình từ Campuchia về Việt Nam, T1 không còn tiền nên đã nhờ Mai Thị Hậu (chị gái T1), gửi cho T1 số tiền 8.500.000đ (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) thông qua tài khoản số 102873201X thuộc Ngân hàng TMCP Công thương (Vietinbank) của một người không quen biết ở khu vực biên giới để T1 chi phí về Việt Nam, Hậu đã nhờ bạn là Nguyễn Thị Hương chuyển khoản số tiền 8.500.00đ đến số tài khoản 102873201X nêu trên). T1 yêu cầu H và T phải bồi thường cho gia đình số tiền 70.000.000đ mà gia đình T1 đã chuyển cho công ty bên Campuchia. Lời khai của T1 phù hợp với lời khai của Bảy, Hậu, Hương, Chung và tài liệu cơ quan điều tra thu thập được. Tuy nhiên, căn cứ kết quả điều tra xác định: Trần Văn T đã về Việt Nam ngày 31/12/2022, Nguyễn Văn H về Việt Nam ngày 04/01/2023 trước 3 thời điểm T1 xin nghỉ việc, không có căn cứ xác định Nguyễn Văn H và Trần Văn T được hưởng lợi từ việc T1 bị công ty phạt nên không xem xét trách nhiệm dân sự đối với Nguyễn Văn H và Trần Văn T theo yêu cầu của Mai Chấn T1.

Quá trình điều tra làm rõ: T1 khai báo không có số tài khoản nên đã nhờ chuyển tiền đến tài khoản Ngân hàng, số 102873201X và người này nhận hộ chuyển tiền mặt cho T1. Tuy nhiên, qua xác minh làm rõ số tài khoản này của Bui Minh H, không quen biết, nhận hộ tiền qua tài khoản ngân hàng nên sau đó đã đưa tiền mặt cho T1 tại khu vực biên giới An Giang; Đối với số tài khoản ngân hàng số 0866092X, T1 khai nhờ Đức nhận số tiền 70.000.000đ do ông Bảy, bố T1 chuyển đẻ đưa cho quản lý công ty, T1 không nói rõ là tiền gì. Qua điều tra xác định số tài khoản này là của Trần Tâm Đức, ở tiểu khu Thảo Nguyên, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, Mộc Châu, Sơn La. Hiện Đức không xác định Đức đang ở đâu, làm gì. Đối với Hà Văn Chung, người mà ông Bảy (bố T1) nhờ chuyển khoản 70.000.000đ đến tài khoản Trần Tâm Đức, ông Bảy không nói cho Chung biết gì về việc liên quan đến T1. Vì vậy, không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Bùi Minh H, Trần Tâm Đức, Hà Văn Chung để xử lý theo quy định.

Tại phiên toà, bị cáo T trình bày số tiền bị cáo được nhận từ bị cáo H là 800USĐ, nhưng sau đó H lại hỏi mượn lại 600USĐ nên bị cáo yêu cầu bị cáo H phải trả lại số tiền đó cho bị cáo để bị cáo khắc phục hậu quả. Đối với bị cáo H thừa nhận có mượn lại của T 600USD nhưng đây là việc vay cá nhân của bị cáo với nhau, bị cáo sẽ trả lại cho T sau. Bị cáo T đồng ý với lời trình bày của bị cáo H về việc vay lại số USD là vay mượn cá nhân.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Mai Chấn T1 trình bày hai bị cáo được cho 3.800USD vào tháng 8/2022 là nằm trong số tiền 70.000.000đ bị công ty phạt. Vì vậy, anh vẫn yêu cầu hai bị cáo bồi thường lại số tiền theo yêu cầu của anh.

Tại phiên tòa ttrong phần luận tội, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T như cáo trạng số 81/CT-VKS-P1, ngày 14/9/2023 của VKSND tỉnh Thanh Hóa đã truy tố và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 349; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Văn H 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng đến 06 (Sáu) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06/6/2023;

- Áp dụng: khoản 1 Điều 349; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự; xử phạt: Trần Văn T 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06/6/2023;

* Hình phạt bổ sung: Do các bị cáo là lao động tự do, công việc không ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo H và T.

* Trách nhiệm dân sự: Số tiền 70.000.000đ, T1 yêu cầu H và T phải bồi thường cho gia đình. Tuy nhiên, không có căn cứ xác định Nguyễn Văn H và 4 Trần Văn T được hưởng lợi từ việc T1 bị công ty phạt nên không xem xét trách nhiệm dân sự đối với Nguyễn Văn H và Trần Văn T đối với số tiền trên.

Truy thu số tiền 3.000USD đối với Nguyễn Văn H; 800USD của Trần Văn T, nộp ngân sách Nhà nước (hoặc số tiền truy thu của các bị cáo sẽ được quy đổi ra tiền VNĐ tương đương giá trị tại thời điểm các bị cáo được hưởng lợi bất chính là ngày 18/8/2022). Riêng bị cáo T được trừ đi số tiền 5.000.000đ đã tự nguyện nộp tại Chi cục thi hành án theo biên lai tạm nộp tiền lập ngày 28/9/2023.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội:

Khoảng đầu tháng 6 năm 2022, Nguyễn Văn H đang đi lao động ở Campuchia đã cùng với một người tên Kiên (không biết tên và địa chỉ cụ thể) ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa thông qua mạng xã hội zalo hướng dẫn, tổ chức cho Trần Văn T vượt biên trái phép sang Campuchia lao động. Đầu tháng 8 năm 2022, Nguyễn Văn H đã liên lạc rủ Mai Chấn T1 và Vũ Văn Tr sang Campuchia lao động. H nói với T1 và Tr biết công việc là ngồi máy tính tìm kiếm khách hàng để giới thiệu, đặt mua hàng qua app shoppe, lazada, lương khoảng 20 triệu/tháng, bao ăn ở, đi chui theo đường tiểu ngạch, không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định, không mất tiền đi đường, T1 và Tr đồng ý. H nói cho T biết T1 và Tr sẽ sang Campuchia lao động. T đã báo cho ông chủ (người Tr Quốc) biết sẽ có 2 người Việt Nam sang lao động, người này đồng ý và giao cho T đặt vé máy bay. Sau đó, T và H thường xuyên liên lạc, hướng dẫn T1 và Tr di chuyển, cùng với người của công ty (T không biết tên, địa chỉ) tổ chức đưa T1 và Tr vượt biên trái phép từ biên giới thuộc địa phận tỉnh An Giang, Việt Nam đi xuồng máy đi qua sông sang Campuchia. Khi T1 và Tr đã đến Campuchia và ký hợp đồng lao động với công ty, Nguyễn Văn H đã được ông chủ của T cho 3.800USD, H đã cho lại T 800USD. Số tiền này các bị cáo đã sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Trong vụ án này, bị cáo H đã tổ chức cho T trốn sang Campuchia để lao động và bị cáo đã cùng T tổ chức cho Mai Chấn T1, Vũ Văn Tr trốn sang Camphuchia để lao động, nên bị cáo phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 của BLHS; Trần Văn T phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” được quy định tại khoản 1 Điều 349 của BLHS, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn H có tính chất rất nghiêm trọng và Trần Văn T có tính chất nghiêm trọng đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất cảnh, cũng như gây ảnh hưởng xấu đến an ninh đối ngoại của hai Nhà nước. Do vậy, cần phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

5 [3] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm trong vụ án. Trong đó, bị cáo Nguyễn Văn H là người đã tổ chức cho Trần Văn T trốn sang Campuchia để lao động và H tiếp tục cùng với T tổ chức cho Mai Chấn T1 và Vũ Văn Tr trốn sang Campuchia để lao động nên H là người giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu và giữ vị trí thứ nhất trong vụ án. Bị cáo Trần Văn T có vai trò giúp sức cùng với Nguyễn Văn H tổ chức cho Mai Chấn T1 và Vũ Văn Tr trốn sang Campuchia để lao động nên hành vi của T giữ vai trò thứ hai trong vụ án

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn H có nhân thân xấu; bị cáo T có nhân thân tốt.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, các bị cáo sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Ngoài ra, trước khi mở phiên tòa bị cáo T đã tác động dến gia đình để tự nguyện nộp số tiền 5.000.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn để khắc phục hậu quả. Bị cáo T có hoàn cảnh khó khăn, bố chết sớm, mẹ thường xuyên ốm đau.Vì vậy, bị cáo H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS; bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[5] Hình phạt bổ sung: Do các bị cáo là lao động tự do, công việc không ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H và T.

[6] Truy thu nộp Ngân sách Nhà nước:

- Đối với Nguyễn Văn H số tiền 3.000USD do được hưởng lợi từ hành vi phạm tội.

- Đối với Trần Văn T số tiền 800USD. Ngày 28/9/2023 mẹ bị cáo là bà Trần Thị Lụa đã tự nguyện tạm nộp số tiền cho bị cáo là 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để khắc phục một phần hậu quả.

Hoặc số tiền truy thu của các bị cáo sẽ được quy đổi ra tiền VNĐ tương đương giá trị tại thời điểm các bị cáo được hưởng lợi bất chính là ngày 18/8/2022. Riêng bị cáo T sau khi tính ra giá trị của số tiền bị truy thu sẽ được trừ đi số tiền 5.000.000đ đã được nộp ngày 28/9/2023, số tiền còn lại buộc bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Số tiền 70.000.000đ, T1 yêu cầu H và T phải bồi thường cho gia đình. Tuy nhiên, không có căn cứ xác định Nguyễn Văn H và Trần Văn T được hưởng lợi từ việc T1 bị công ty phạt hợp đồng nên HĐXX không xem xét trách nhiệm dân sự đối với Nguyễn Văn H và Trần Văn T đối với số tiền trên.

[8] Từ những căn cứ nêu trên, HĐXX xét thấy cần áp dụng Điều 38 của BLHS để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật.Tuy nhiên, căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và thái độ khắc phục hậu quả của bị cáo T nên HĐXX cho bị cáo T hưởng 6 một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 54 của BLHS, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật dành cho bị cáo.

[9] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn T phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 349; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Nguyễn Văn H).

Khoản 1 Điều 349; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Trần Văn T).

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Văn T phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06/6/2023.

Bị cáo Trần Văn T 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06/6/2023.

* Truy thu nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 3.000USD đối với Nguyễn Văn H; 800USD của Trần Văn T (hoặc số tiền các bị cáo bị truy thu sẽ được quy đổi ra tiền VNĐ, tương đương giá trị tại thời điểm các bị cáo được hưởng lợi bất chính là ngày 18/8/2022). Riêng bị cáo T sau khi tính ra giá trị của số tiền bị truy thu sẽ được trừ đi số tiền đã nộp là 5.000.000đ, theo biên lai nộp tiền số AA/2021/0007383, ngày 28/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, số tiền còn lại buộc bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc Nguyễn Văn H và Trần Văn T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài (sang Campuchia) số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về