Bản án về tội tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép số 215/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 215/2022/HS-PT NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC Ở LẠI VIỆT NAM TRÁI PHÉP

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 171/2022/TLPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép”. Do có kháng cáo của các bị đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HSST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Thị Diệu M, tên gọi khác: không; sinh ngày 25 tháng 9 năm 1992 tại Hồng Kông; nơi cư trú: thành phố Đà Nang; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Lê Đức V, sinh năm 1973 và bà Lê Thị Phước A, sinh năm 1973. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2020 đến ngày 25/9/2020, tạm giam từ ngày 31/12/2020, có mặt.

2. Trần Thị Thanh T, tên gọi khác: M; sinh ngày 28 tháng 4 năm 1993 tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: tỉnh An Giang; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Lê Văn T (bỏ rơi từ nhỏ) và bà Trần Thị Tố A, sinh năm 1969. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2020, có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị Diệu M: Ông Nguyễn Minh K, Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV K, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, vắng mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Thị Thanh T: Ông Trần Minh T, Luật sư của Văn phòng Luật sư Đ, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 30/7/2020, Công an thành phố Đà Nẵng kiểm tra cư trú tại cơ sở lưu trú và massage L spa & Apartment, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng phát hiện 13 đối tượng có Quốc tịch Trung Quốc đang lưu trú đều không có thị thực, nhập cảnh Việt Nam trái phép, gồm: Y (sinh ngày 01/11/1994); H (sinh ngày 18/11/1994); C (sinh ngày 06/02/1990); L (sinh ngày 25/02/1997); W (sinh ngày 22/02/1986); Z (sinh ngày 16/04/1986); Z (sinh ngày 20/02/1990); S (sinh ngày 06/4/1995); F (sinh ngày 12/5/1988); C (sinh ngày 01/01/2001); W (sinh ngày 20/3/1991); X (sinh ngày 06/6/1985); C (sinh ngày 01/11/1994).

Qua điều tra xác định như sau:

Cơ sở massage và lưu trú L spa & Apartment tại số 110 T, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng (gọi tắt là cơ sở lưu trú L spa) do Lê Thị Diệu M thuê lại của chị Lương Thị Tú U vào tháng 02/2019 để làm cơ sở lưu trú và massage. Ngoài ra, M còn thuê của chị Nguyễn Thị C khách sạn H, tại phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng từ ngày 01/5/2020 đến ngày 01/01/2021 với số tiền 60.000.000đồng/tháng.

Khoảng tháng 10/2019, Trần Thị Thanh T quen biết với M qua mạng xã hội facebook, M mở quán karaoke D tại 130 N nên M rủ T về phụ giúp M trong việc kinh doanh và chia cho T 10% lợi nhuận karaoke. Đến tháng 01/2020, T chuyển về ở cùng M và làm quản lý tại cơ sở lưu trú L spa. Nguồn thu nhập của T từ kinh doanh và môi giới cho khách Trung Quốc đến các quán karaoke trên địa bàn để hường từ 10%-20% tiền hoa hồng. Tháng 6/2020, M thuê Nguyễn Thanh H làm quản lý cho cơ sở lưu trú L spa với mức lương 5.000.000đồng/tháng.

Trong khoảng thời gian từ ngày 23/7/2020 đến ngày 30/7/2020, Lê Thị Diệu M cùng với Trần Thị Thanh T và Nguyễn Thanh H đã nhiều lần tổ chức cho nhiều đối tượng có Quốc tịch Trung Quốc nhập cảnh Việt Nam trái phép vào ở tại cơ sở lưu trú L spa, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 18 giờ ngày 23/7/2020, c đến cơ sở lưu trú L spa gặp M hỏi thuê phòng, do M không thạo tiếng Trung, nên M gọi T xuống dẫn C đi xem phòng. Sau khi xem phòng, C đồng ý thuê 03 phòng với giá 800.000đồng/phòng/ngày để ở cùng H, W, F, C, X, Y, L, W . Thuê phòng xong C rủ và chở T sang Karaoke N để ăn uống cùng H và một số người bạn Trung Quốc của C (không rõ lai lịch). Một lúc sau thì M cũng đến, sau đó M về trước. Khuya cùng ngày, C, H về sở lưu trú L spa để ngủ.

Đến 18 giờ ngày 24/7/2020, T ra ngoài thì nghe thông tin Công an kiểm tra lưu trú nên T quay về cơ sở lưu trú L spa thông báo cho khách Trung Quốc và yêu cầu họ xuống lầu để trốn Công an, M nghe T thông báo thì cũng lên phòng ra hiệu cho W và L xuống dưới. T dặn Nguyễn Thanh H thu tiền phòng 2.400.000 đồng của Chao bỏ vào hộc tủ quầy lễ tân và đưa 09 người khách Trung Quốc đi bằng cửa sau của cơ sở lưu trú L spa sang khách sạn H gặp chị C để lấy các thẻ từ mở điện ba phòng 601, 604 và 605 trên tầng 6 cho khách Trung Quốc trốn. Tối cùng ngày, H mua mì tôm, nước ngọt, đồ ăn vặt, lấy nước suối tại khách sạn H để phục vụ cho khách Trung Quốc. Đến 05 giờ ngày 25/7/2020, H lên phòng gọi và dẫn tất cả 09 khách Trung Quốc về lại cơ sở lưu trú L spa bằng cửa sau để ở. Sợ các camera của khách sạn H có lưu lại hình ảnh, nên M nhắn tin cho một người tên "Nội” (có tên là Nguyễn Thị L là nhân viên masage tại cơ sở lưu trú L spa) sang khách sạn H yêu cầu chị C xóa dữ liệu camera giám sát của khách sạn, T cũng trực tiếp nói chị C xóa camera.

Đến ngày 26/7/2020, Z nhập cảnh Việt Nam trái phép và đến Đà Nẵng liên hệ với Y (Z và Y là anh em cọc chèo với nhau) đón và dẫn về cơ sở lưu trú L spa ở cùng phòng với Y.

Tối ngày 27/7/2020, Trần Thị Thanh T tiếp tục có thông tin Công an đi kiểm tra các khách sạn gần cơ sở lưu trú L spa nên T nhắn tin qua nhóm wechat và trực tiếp lên các phòng thông báo cho khách Trung Quốc có Công an kiểm tra, M cũng lên phòng ra hiệu cho w và L đi xuống dưới để trốn Công an. Nhóm khách Trung Quốc 09 người gồm: C, H, W, F, C, X, Y, W, Zhang Jiang Mu mang theo hành lý đi xuống dưới, T mở cửa sau để nhóm người trên đi khỏi cơ sở lưu trú L spa, sau đó nhóm khách Trung Quốc đi sang nhà hàng M (số 44 T, phường Bắc M, quận N, thành phố Đà Nẵng) để trốn. Đối với L thì chỉ thấy M ra hiệu chỉ tay vào W mà không ra hiệu với mình nên S cũng tò mò đi xuống dưới nhưng không thấy ai nói gì với mình nên S quay lại phòng để ở mà không cùng mọi người trốn sang nhà hàng M. Số tiền 2.400.000 đồng H thu của C để vào trong hộc tủ quầy lễ tân, M đã lấy sử dụng tiêu xài cá nhân.

- Lần thứ hai: Sau khi các đối tượng Trung Quốc trốn qua nhà hàng M, thì M nói H về nhà nghỉ vì đã có thông báo giãn cách xã hội do dịch Covid-19. Sau đó M đi ăn tối cùng T thì gặp hai người Trung Quốc là S và S Pei Wei. T giới thiệu với S và S Pei Wei là T có cho thuê phòng ở, sau đó T đưa S và S Pei Wei về cơ sở lưu trú L spa mở cửa sau cho họ vào và sắp xếp phòng ở đồng thời T lấy trước 2.000.000 đồng tiền phòng từ S. Số tiền này T sử dụng tiêu xài cá nhân.

Sáng ngày 28/7/2020, M và T đi siêu thị mua nhiều loại thực phẩm đem về cơ sở lưu trú của mình cất trong 03 tủ lạnh ở tầng hầm và tủ lạnh ở phòng 201. Chiều cùng ngày, C có gọi điện thoại cho T báo đã cùng nhóm người Trung Quốc về lại cơ sở lưu trú L spa ở thì T đồng ý. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Lê Thị K (là nhân viên tạp vụ ở karaoke D của M) gọi điện thoại xin M đến 110 T để ở thì được M đồng ý cho ở phòng 202. Trong ngày 28/7/2020, M gọi điện thoại cho H yêu cầu H sang cơ sở lưu trú L spa để trông khách Trung Quốc.

Ngày 29/7/2020, H sang cơ sở lưu trú L spa làm việc theo yêu cầu của M và ở tại phòng 201. Chiều cùng ngày C xuống phòng 201 đưa cho H 1.000.000 đồng nhờ mua thuốc lá. H mua 03 cây thuốc lá hiệu 555 mang về phòng 201 thì gặp T, T nói với H khách Trung Quốc muốn ăn trái cây nên H sang phòng 202 gọi K lấy trái cây từ tủ lạnh phòng 201 gọt 02 dĩa trái cây và cùng nhau đem lên cho khách Trung Quốc, xong việc H có nói lại với M và T. Sau đó T đưa bánh mỳ và sữa đặc (sữa lon) nói H mang lên cho khách Trung Quốc. Tối cùng ngày, T tiếp tục nấu ăn tại phòng 201. Lúc này H, M cũng ở đó, nấu xong thì T múc thức ăn vào 02 khay và nói H đem lên cho khách Trung Quốc. Cũng trong tối hôm đó, C liên hệ với T nói trả trước tiền phòng, T nói H lên phòng gặp C lấy số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi lấy tiền, H gặp M và đưa toàn bộ số tiền này cho M, H nói với M đây là tiền khách Trung Quốc gửi cho T thì M nhận tiền.

Sáng ngày 30/7/2020, M cùng T đi siêu thị mua thực phẩm để gửi cho em gái M đang cách ly ở Hòa Vang và trữ tại 03 tủ lạnh tại tầng hầm của cơ sở lưu trú L spa. Trưa cùng ngày, sau khi nấu ăn và đem cho khách Trung Quốc xong thì C gặp T nói với muốn đi lấy tiền và lấy đồ, T thông báo với C tăng giá tiền phòng lên 2.000.000 đồng/người/ngày (bao gồm cả tiền phòng và tiền ăn) vì Công an đang kiểm tra ráo riết. Sau đó, T nói H đi cùng C sang nhà hàng M để C lấy đồ sau đó C và H về lại cơ sở lưu trú L spa bằng cửa sau.

Lần thứ ba: Vào trưa ngày 30/7/2020, C đến L spa &Apartment để thuê phòng ở thì gặp T, T báo giá 2.000.000đồng/phòng/ngày và bố trí phòng cho C tại tầng 6.

Tang, tài vật thu giữ:

Tạm giữ của 13 đối tượng Trung Quốc: 01 máy tính xách tay hiệu Asus của Y; 17 điện thoại di động các loại (11 Iphone, 02 Huawei, 01 Oppo, 01 Samsung, 01 xiaomi, 01 honor); 12 CMND Trung Quốc; 01 hộ chiếu Trung Quốc tên Y; 01 đồng hồ đeo tay màu đen và 01 dây kim loại màu vàng của H; 113 tờ tiền ghi mệnh giá 500.000 đồng (chưa xác định thật giả) của C; 38 tờ tiền ghi mệnh giá 100 nhân dân tệ (chưa xác định thật giả) của C; 44 tờ tiền mệnh giá 100 nhân dân tệ (chưa xác định thật giả) của Y. Quá trình điều tra xác định các vật chứng nêu trên không liên quan đến vụ án nên Cơ quan An ninh điều tra Công an thành phố Đà Nẵng đã trả lại cho chủ sở hữu theo Quyết định xử lý vật chứng số 401/QĐ-ANĐT ngày 05/10/2020.

Tạm giữ của Nguyễn Thanh H: 01 điện thoại di động hiệu iphone, loại Xsmax, màu đen, số Imeil 357271094306400, Imei2 357271094216609 kèm theo 01 sim điện thoại số 0935609452.

Tạm giữ của Lê Thị Diệu M: 01 điện thoại di động hiệu iphone, loại Xsmax, màu đen, số Imeil 357263098132106, Imei2 357263098164067 kèm theo 01 sim điện thoại số 0937274222; 01 điện thoại di động hiệu iphone, màu xanh, số Imeil 353922107620310; 01 điện thoại di động hiệu iphone, màu vàng, sô Imeil 353897102097690.

Tạm giữ các tang, tài vật chưa xác định được chủ sở hữu: 09 điện thoại di động (06 iphone, 03 Xiaomi); 25 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 02 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng; 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng; 04 tờ tiền mệnh giá 20 nhân dân tệ; 06 tờ tiền mệnh giá 10 nhân dân tệ; 11 tờ tiền mệnh giá 01 nhân dân tệ; 01 tờ tiền mệnh giá 01 USD (tất cả các loại tiền đều chưa xác định thật, giả).

Tạm giữ các tài liệu khác gồm: 01 hợp đồng thuê nhà số 110 T, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng giữa bên thuê là chị Lương Thị Tú U và Phạm Ngọc Kiều O, bên cho thuê là ông Nguyễn Công T và bà Trần Thị Kim T; 01 hợp đồng thuê khoán công việc cơ sở L spa & Apartment (số 110 T, phường M, quận N, thành phố Đà Nang) giữa bên cho thuê là chị Lương Thị Tú U và bên thuê là Lê Thị Diệu M; 01 hợp đồng ủy quyền khách sạn của chị Nguyễn Thị C cho Lê Thị Diệu M.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HSST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nằng đã quyết định .

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T phạm tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép”.

Về hình phạt:

Căn cứ vào: điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 348; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Diệu M 09 (chín) năm tù nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước đó là 10 (mười) ngày, từ ngày 16/9/2020 đến ngày 25/9/2020. Thời hạn tù bị cáo còn phải chấp hành là 08 (tám) năm 11 (mười một) tháng 20 (hai mươi) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Lê Thị Diệu M 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Căn cứ vào: điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 348; điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thanh T 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/9/2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Trần Thị Thanh T 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 46,47 Bộ luật Hình sự

Buộc bị cáo Lê Thị Diệu M nộp 22.400.000 đồng (hai mươi hai triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền thu lợi bất chính sung vào ngân sách nhà nước.

Buộc bị cáo Trần Thị Thanh T nộp 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền thu lợi bất chính sung vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thanh H và quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xử sơ thẩm: Ngày 9/4/2022, các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Thị Diệu M 09 năm tù và Trần Thị Thanh T 08 năm tù là quá nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa: Các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo; kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt đối với các bị cáo.

Sau khi nghe: Các bị cáo trình bày nội dung kháng cáo; quan điểm của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Người bào chữa cho các bị cáo vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm có căn cứ để kết luận: Trong thời gian từ ngày 23/7/2020 đến ngày 30/7/2020, Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T đã nhiều lần tổ chức cho 13 đối tượng người Trung Quốc không có thị thực nhập cảnh trái phép vào ở tại cơ sở lưu trú và massage L spa &Apartment; Nguyễn Thị Thanh H có hành vi 02 lần giúp M và T trong việc tổ chức cho 10 đối tượng người Trung Quốc không có thị thực nhập cảnh ở lại Việt Nam trái phép. Tổng số tiền M thu lợi bất chính là 22.400.000 đồng, T thu lợi bất chính 2.000.000 đồng. Với hành vi và hậu quả như trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên bố các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T và Nguyễn Thanh H phạm tội: “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 348 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T thì thấy: Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T biết rõ 13 đối tượng người Trung Quốc sang Việt Nam không có thị thực, hộ chiếu nhập cảnh vào Việt Nam nhưng bị cáo vẫn đồng ý vào ở tại cơ sở lưu trú và massage L spa &Apartment; Hành vi phạm tội của các bị cáo bị truy tố và xét xử theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 348 Bộ luật hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo T để xử phạt bị cáo Lê Thị Diệu M 09 năm tù, bị cáo Trần Thị Thanh T 08 năm tù là mức án giữa khung của tội mà bị cáo bị truy tố và xét xử là đứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Thị Thanh T xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới; bị cáo Lê Thị Diệu M thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã xác định nhưng không làm giảm trách nhiệm hình sự mà Bản án sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo M nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T.

[4]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Từ những nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Áp dụng: điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Diệu M 09 (chín) năm tù nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước đó là 10 (mười) ngày, từ ngày 16/9/2020 đến ngày 25/9/2020. Thời hạn tù bị cáo còn phải chấp hành là 08 (tám) năm 11 (mười một) tháng 20 (hai mươi) ngày tù về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Lê Thị Diệu M 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Áp dụng: điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 348; điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thanh T 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/9/2020.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Trần Thị Thanh T 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

2. Án phí phúc thẩm:

- Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Lê Thị Diệu M, Trần Thị Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Trần Thanh H và các Quyết định về: Biện pháp tư pháp; xử lý vật chứng; án phí sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác ở lại Việt Nam trái phép số 215/2022/HS-PT

Số hiệu:215/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về