TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC NHẬP CẢNH TRÁI PHÉP
Ngày 03 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST-HS, ngày 12 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXXST- HS, ngày 22 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
Vũ Đình D, tên gọi khác: Không; sinh ngày: 02/5/1986 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Xóm T, thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt N; con ông: Vũ Đình N và con bà Nguyễn Thị D; có vợ: Nguyễn Thị D; con; có 02 con, lớn sinh 2014, nhỏ 2017; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn từ ngày 21/4/2021 đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 21/4/2021, Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp cùng các lực lượng chức năng làm nhiệm vụ tại Quốc lộ 4A khu vực thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn phát hiện xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA biển số: 29A-X đang di chuyển theo hướng N đến thị trấn Đ, Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trên xe ô tô có 04 người gồm: Vũ Đình D và 03 người Trung Quốc, gồm: Nghiêm Thừa L, Lô Trường D, Hồ Khả L, Vũ Đình D khai nhận đang tổ chức đưa 03 người Trung Quốc trên nhập cảnh trái phép từ Trung Quốc vào Việt N để nhận tiền công 1.500.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vũ Đình D theo quy định.
Cơ quan An ninh điều tra điều tra đã làm rõ hành vi phạm tội của Vũ Đình D như sau:
Vũ Đình D làm nghề lái xe. Ngày 12/4/2021, có 01 người đàn ông tên N (không biết họ tên, địa chỉ cụ thể) sử dụng số điện thoại 0862.568.X gọi vào số điện thoại 0989.040.X của Vũ Đình D đặt vấn đề cần chở mấy “tấn” từ khu vực đèo M, xã Q, huyện T, tỉnh Cao Bằng về khu vực tỉnh Hưng Yên. Do không biết “tấn” là gì, Vũ Đình D hỏi N thì được N cho biết “tấn" là người. Do N thuê Vũ Đình D đi đón người ở khu vực biên giới của tỉnh Cao Bằng và dùng tiếng lóng để nói về những người cần đón nên Vũ Đình D nghĩ những người khách này là người nhập cảnh trái phép vào Việt N. Vũ Đình D đồng ý và trả lời N khi nào có khách đưa lên Cao Bằng và tiện chuyến về thì sẽ gọi báo cho N biết. Sau đó, Vũ Đình D ghi lại số điện thoại 0862.568.X của N vào một tờ giấy cất vào ví.
Khoảng 20 giờ ngày 19/4/2021, có 03 người khách thuê Vũ Đình D chở từ thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đến thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Cao Bằng với giá 4.500.000 đồng, sau đó, Vũ Đình D gọi điện thoại cho Lê Đình N, sinh 1990, trú tại tiểu khu O, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để thuê xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA của Lê Đình N có biển số 29A-X đi chở khách. Sau khi thuê được xe, Vũ Đình D đưa 03 người khách lên thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Cao Bằng. Khoảng 05 giờ sáng ngày 20/4/2021, Vũ Đình D đến Cao Bằng và trả khách tại thị trấn Q, huyện Q. Tại đây, Vũ Đình D nghĩ đến người đàn ông tên N trước đó liên lạc thuê đón khách nhập cảnh trái phép nên đã nhắn tin thông báo cho N biết việc mình đang ở tỉnh Cao Bằng và có xe về qua số điện thoại Vũ Đình D đã ghi lại trước đó của N thì được N nhắn tin thông báo cho Vũ Đình D biết hôm nay chưa có khách về, phải đợi khoảng 01 ngày thì sẽ có khách cần đưa từ đèo M về khu vực thành phố H. Vũ Đình D đã sử dụng phần mềm Messenger trong tài khoản Facebook để gọi cho N bằng phần mềm Messenger nói chuyện. Qua trao đổi, N hỏi Vũ Đình D về tiền công đón khách từ đèo M về khu vực thành phố H thì Vũ Đình D báo giá là 1.500.000 đồng. N đồng ý và bảo Vũ Đình D cứ đưa đến khu vực thành phố H, tỉnh Hưng Yên sẽ có người đón và trả tiền công, sau khi trao đổi, Vũ Đình D lái xe đến một nhà nghỉ gần cầu P để nghỉ ngơi chờ đón khách. Khoảng 20 giờ ngày 20/4/2021, Vũ Đình D dùng phần mềm Messenger gọi cho N hỏi cụ thể thời gian đón khách thì được N cho biết là khoảng 01 giờ 30 phút ngày 21/4/2021 sẽ có 03 người khách và dặn Vũ Đình D đi lên đèo M sẽ thấy 03 người khách mang theo hành lý đứng cạnh đường thì Vũ Đình D nháy đèn ô tô, nếu khách vẫy tay lại thì đón 03 người khách đó, Vũ Đình D đồng ý và rời khỏi nhà nghỉ lái xe ô tô đến một cây xăng gần thị trấn Q để chở.
Khoảng 01 giờ ngày 21/4/2021, Vũ Đình D điều khiển xe ô tô đi theo hướng lên đèo M đón khách. Khi đến gần đỉnh đèo M, Vũ Đình D thấy có 03 người khách mang theo hành lý đứng cạnh đường, Vũ Đình D nháy đèn thì thấy khách vẫy tay lại nên đã lái xe đến chỗ khách đứng. Vũ Đình D mở cửa xe ô tô, dùng cử chỉ để ra hiệu cho ba khách lên xe và yêu cầu khách không được nói chuyện. Sau đó, Vũ Đình D dùng phần mềm Messenger gọi cho N để xác nhận về 03 người Trung Quốc vừa lên xe, N trả lời là đã đúng người, đồng thời N yêu cầu Vũ Đình D xóa hết các tin nhắn, cuộc gọi liên quan đến N trong điện thoại đi, Vũ Đình D đã xóa các tin nhắn, lịch sử cuộc gọi liên quan đến số điện thoại 0862.568.X trong phần mềm Messenger liên quan đến N trong điện thoại của mình. Sau đó Vũ Đình D lái xe ô tô chở ba người Trung Quốc nhập cảnh trái phép đi về tỉnh Hưng Yên. Khoảng 04 giờ ngày 21/4/2021, N gọi điện thoại hỏi Vũ Đình D đang về đến đâu thì Vũ Đình D cho N biết đã về đến tỉnh Lạng Sơn. Khi Vũ Đình D đi đến địa phận thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.
Quá trình điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã thu giữ: 01 giấy phép lái xe ô tô; 01 bản phô tô giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô;
01 căn cước công dân; 01 xe ô tô nhãn hiệu INNOVA màu bạc, BKS:29A- X; 01 điện thoại SAMSUNG màu đỏ; 01 giấy chứng nhận kiểm định An toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự; 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ của Vũ Đình D.
Cáo trạng số: 125/CT-VKS-P2, ngày 11/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vũ Đình D về tội Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, xác định bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng, Huân chương kháng chiến, nên bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình D phạm tội: Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép. Áp dụng khoản 1 Điều 348; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù. Về số tiền hưởng lợi bị cáo chưa nhận được nên không đề nghị truy thu. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu điện thoại dùng vào việc phạm tội, trả lại cho bị cáo căn cước công dân và giấy phép lái xe mang tên bị cáo, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên Tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định khoảng 04 giờ sáng ngày 21/4/2021 Vũ Đình D có hành vi tổ chức cho 03 người đàn ông Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N đến tỉnh Hưng Yên để lấy tiền công 1.5.000 đồng, khi đến địa phận thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị bắt quả tang.
[3] Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Đình D phạm tội Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 348 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất nhập cảnh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt N và gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương và khu vực biên giới, nhất là trong lúc cả nước đang ra sức phòng chống dịch bệnh Covid-19 và gián tiếp gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rõ hành vi tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép là vi phạm pháp luật, nhưng vì động cơ vụ lợi nên vẫn cố ý thực hiện. Chính vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh đúng quy định của pháp luật nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo không xác định được đối tượng đồng phạm, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình đã gây ra vì bị cáo thực hiện với vai trò chủ động, tích cực, thể hiện khi bị cáo chở khách từ tỉnh Thanh Hóa lên tỉnh Cao Bằng, khi giao khách thì đã chủ động nhắn tin cho đối tượng tên N để nhận chở khách Trung Quốc nhập cảnh trái phép. Tuy nhiên khi lượng hình cần đánh giá tính chất, vai trò, nhân thân của bị cáo, cụ thể: Bị cáo chỉ là người nhận với một đối tượng tên N để chở 03 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép về tỉnh Hưng Yên để lấy tiền công, đối tượng chủ mưu không bắt được. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình đã thực hiện.
[6] Về nhân thân: Bị cáo lần đầu phạm tội, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nên được coi là có nhân thân tốt.
[7] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[8] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bố của bị cáo là ông Vũ Đình N (Vũ Đức N) được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, Hội đồng cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền N Việt N tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng nhất, hạng ba nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên vẫn cần có một mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[9] Về hình phạt bổ sung: Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện bị cáo thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng hoặc tài sản có giá trị không đáng kể nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[10] Về vật chứng: Điện thoại di động của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước, trả lại cho bị cáo căn cước công dân, giấy phép lái xe do không liên quan đến tội phạm. Ngày 14/9/2021, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 29A-X cùng các giấy tờ liên quan cho Lê Đình N, Tòa án không xem xét mà chỉ xác nhận.
[11] Đối với 03 công dân Trung Quốc có hành vi nhập cảnh trái phép vào lãnh thổ Việt N, ngày 25/4/2021, Cơ quan điều tra phối hợp cùng lực lượng chức năng thực hiện Quyết định trục xuất đối với ba công dân Trung Quốc trên theo quy định. Đối với 03 người đi 03 xe mô tô đưa 03 người đàn ông Trung Quốc nhập cảnh theo đường mòn khu vực biên giới để nhập cảnh trái phép vào Việt N. Do không có thông tin cụ thể về tên tuổi, địa chỉ và là người nước ngoài nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ. Đối với 02 người Việt N đón người Trung Quốc từ khu vực biên giới vào khu vực đèo M thuộc huyện T, tỉnh Cao Bằng. Do không có thông tin cụ thể về tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ. Đối với người đàn ông tên N đặt vấn đề thuê Vũ Đình D chở 03 người khách Trung Quốc từ khu vực biên giới vào nội địa Việt N: Vũ Đình D khai nhận chưa gặp người này bao giờ mà chỉ liên lạc, trao đổi qua số điện thoại và phần mềm Messenger của mạng xã hội Facebook. Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, Vũ Đình D đã xóa hết tin nhắn, cuộc gọi liên quan đến N. Do đó Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ đối tượng N. Đối với số điện thoại 0862.568.X mà đối tượng N sử dụng, qua điều tra đã xác định: Chủ thuê bao là Phạm Đức M và qua xác minh Phạm Đức M không có liên quan trong vụ án. Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA INNOVA, biển kiểm soát 29A- X mà bị cáo Vũ Đình D sử dụng để chở 03 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép, qua điều tra xác định chiếc xe trên Vũ Đình D đã thuê của Lê Đình N với lý do là đi chở cây hoa lan cảnh, việc bị cáo dùng xe chở người nhập cảnh Lê Đình N không biết. Do đó, không đủ căn cứ để xác định Lê Đình N có liên quan trong vụ án.
[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước [13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, đề nghị nào phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử thì được chấp nhận, đề nghị nào không phù hợp không được chấp nhận.
[14] Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ tại khoản 1 Điều 348 và điểm s khoản 1, 2 Điều 51, các điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo: Vũ Đình D phạm tội Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Đình D 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 21/4/2021.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1. Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đỏ, máy cũ đã qua sử dụng, có số IMEI 1: 354402100894096/01, số IMEI 2: 354403100894094/01, bên trong gắn 01 sim điện thoại Mobifone, trên thân sim có dãy số: 8401 1908 1237 6825 WD và một sim điện thoại Viettel, trên thân sim có dãy số: 8984 04800 00638 28286.
3.2. Trả lại cho bị cáo Vũ Đình D: 01 (một) Giấy phép lái xe ô tô số: 310103001X mang tên Vũ Đình D do Sở G tỉnh Thanh Hóa cấp ngày 12/4/2018; 01 (một) Căn cước công dân số: 038086012X mang tên Vũ Đình D do Cục Cảnh sát ĐKQL cư trú và DLQG cấp ngày 29/8/2018.
(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Cục T tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 10 năm 2021).
4. Xác nhận ngày 14/9/2021 Cơ quan an ninh Điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn đã trả 01 (một) xe Ô tô hiệu Toyota, biển kiểm soát: 29A-X cho ông Lê Đình N và các giấy tờ kèm theo xe.
5. Về án phí: Bị cáo Vũ Đình D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép số 76/2021/HS-ST
Số hiệu: | 76/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về