TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 507/2023/HS-PT NGÀY 11/07/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC NHẬP CẢNH TRÁI PHÉP
Ngày 11 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 471/2023/TLPT-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 đối với Lương Văn K bị xét xử về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2023/HS-ST ngày 27/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh C.
* Bị cáo có kháng cáo:
Lương Văn K, tên gọi khác: không, sinh ngày 10 tháng 8 năm 1980 tại xã N, huyện T, tỉnh C.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm G, xã N, huyện T, tỉnh C; nơi tạm trú: Tổ F, phường H, thành phố C, tỉnh C; nghề nghiệp: giáo viên dạy lái xe ô tô; trình độ văn hoá: lớp 12/12 phổ thông; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương N, sinh năm 1947 và bà Nông Thị T, sinh năm 1944; có vợ là Nguyễn Thị Y, sinh năm 1983 và 01 con; tiền án, tiền sự: không có;
Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18-10-2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh C; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ ngày 18 tháng 10 năm 2022, tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Đồn Biên phòng N2 làm nhiệm vụ tại tổ dân phố B, thị trấn T, huyện T, tỉnh C phát hiện Lương Văn K điều khiển xe ô tô nhãn hiệu DAEWOO Gentra màu đen mang biển kiểm soát 11A-X có biểu hiện nghi vấn về xuất nhập cảnh trái phép, tổ công tác ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra thì có một người Trung Quốc tên là Chu Vệ H, sinh năm 1996, trú tại số C làng H, thôn C, trấn T, huyện L, tỉnh Q5, Trung Quốc mở cửa xe ô tô bỏ chạy, sau đó Lương Văn K và Chu Vệ H bị tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ phương tiện, đồ vật theo quy định để tiếp tục điều tra làm rõ.
Tiến hành điều tra vụ án đã xác định được như sau: Khoảng tháng 9-2022, có một người đàn ông sử dụng tài khoản Wechat “O4” liên lạc với tài khoản “Dl” của Lương Văn K nói “có hàng tươi sống không giấy tờ nguồn gốc đưa từ thị trấn T đến Án L, xã N, huyện H với tiền công 5.000.000 đồng - 6.000.000 đồng/01 người, Lương Văn K đồng ý và gửi số điện thoại của mình cho người này để biết địa điểm đón người, hai bên thống nhất khi đưa người nhập cảnh trái phép ra đến khu vực Án L thì Lương Văn K gọi điện lại cho người này để chuyển tiền công vào tài khoản 8501666567X của Lương Văn K mở tại Ngân hàng A chi nhánh N3. Từ tháng 9-2022, Lương Văn K bắt đầu đón người nhập cảnh trái phép đưa đến địa điểm đã thống nhất với người thuê trót lọt là 10 lần, lần ít nhất đón, đưa là 02 người, lần nhiều nhất là 07 người, trung bình từ 04 - 05 người, Lương Văn K đã được hưởng lợi tổng số tiền công là 282.000.000 đồng (hai trăm tám mươi hai triệu đồng). Ngày 18-10-2022, người sử dụng tài khoản Wechat “O4” tiếp tục báo cho Lương Văn K đến xóm G, xã N, huyện T đón 04 người, người này cho Lương Văn K số điện thoại 0845.662.189 để tiện liên lạc, khi Lương Văn K điều khiển xe ô tô DAEWOO Gentra màu đen mang biển kiểm soát 11A-X đến nơi khoảng 18 giờ cùng ngày thì Lương Văn K chỉ đón được 01 người, Lương Văn K chờ khoảng 05 phút sau thì tài khoản “O4” bảo di chuyển đến địa điểm giao người, khi Lương Văn K đang điều khiển xe ô tô đến tổ B, thị trấn T, huyện T thì bị tổ công tác phát hiện, ngăn chặn.
Ngày 07-02-2023, Nguyễn Thị Y là vợ của Lương Văn K đến cơ quan điều tra nộp số tiền 79.000.000 đồng (bảy mươi chín triệu đồng) tiền thu lợi bất chính do Lương Văn K phạm tội mà có.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh C đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn K phạm tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”.
Áp dụng điểm b, c, đ khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Văn K 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giam là ngày 18- 10-2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 30/3/2023, bị cáo Lương Văn K kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Lương Văn K giữ nguyên nội dung kháng cáo; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; anh trai của bị cáo là anh Lương Văn T1 xuất trình giấy chứng nhận thương binh của ông Lương Văn K (là bố đẻ bị cáo) là thương binh hạng 3/4 (có xác nhận của Phòng Lao động thương binh xã hội, Ủy ban nhân dân huyện T). Bị cáo mong muốn Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Từ những tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo 08 năm tù dựa trên cơ sở đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bố bị cáo là ông Lương Văn N1 có quá trình tham gia phục vụ trong Q được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba; Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng Nhì, hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Ba; bị cáo đã tác động cho vợ là Nguyễn Thị Y nộp lại số tiền thu lợi bất chính 79.000.000 đồng (bảy mươi chín triệu đồng) được hưởng thêm 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất phạm tội, nhân thân bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo 08 năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo xuất trình thêm tài liệu thể hiện bố bị cáo là thương binh 3/4, đây là tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo. Từ những căn cứ trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Văn K, giảm hình phạt cho bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà phúc thẩm bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng luật.
[2] Về nội dung: Lời khai của bị cáo Lương Văn K hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 21 giờ ngày 18-10-2022 của Công an huyện T, tỉnh C; Bản tự khai; biên bản ghi lời khai; Biên bản hỏi cung, Biên bản hỏi cung có sự tham gia của người bào chữa về quá trình thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản mở niêm phong, trích xuất tài liệu, dữ liệu điện tử từ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO tạm giữ của Lương Văn K; phù hợp với lời khai của công dân Trung Quốc Chu Vệ H là người được K đón tại xóm G, xã N, huyện T, tỉnh C để đưa đến Án Lại, xã N, huyện H, tỉnh C giao cho người nhận, B kê chi tiết về tài khoản đối ứng đã chuyển tiền đến tài khoản của Lương Văn K, sổ phụ tài khoản của Lương Văn K, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận:
Tháng 9-2022, Lương Văn K được một người sử dụng tài khoản Wechat “O4” trao đổi thuê đón người nhập cảnh trái phép qua khu vực biên giới huyện T, tỉnh C, người này hứa trả công từ 5.000.000 đồng - 6.000.000 đồng/01 người để Lương Văn K đưa đến khu vực Á, xã N, huyện H, Lương Văn K đồng ý và dùng xe ô tô DAEWOO Gentra màu đen mang biển kiểm soát 11A-X chở trót lọt và giao cho người khác 10 lần, lần ít nhất 02 người, lần nhiều nhất 07 người. Sau mỗi lần đón, đưa người trót lọt, Lương Văn K được người dùng tài khoản Wechat “O4” chuyển tiền vào tài khoản 8501666567X của Lương Văn K mở tại Chi nhánh N3 tổng số tiền 282.000.000 đồng (hai trăm tám mươi hai triệu đồng). Ngày 18-10-2022, tài khoản “O4” gọi điện cho Lương Văn K đến khu vực biên giới huyện T đón 04 người nhưng khi đến nơi Lương Văn K chỉ đón được 01 người, khi đang di chuyển ra hướng thành phố C thì bị phát hiện, bắt quả tang tại tổ B, thị trấn T, huyện T, tỉnh C. Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Lương Văn K về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép” theo quy định tại điểm b, c, đ khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật là có căn cứ, đảm bảo quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Lương Văn K, Hội đồng xét xử xét thấy:
Hành vi tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép của Lương Văn K đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực nhập cảnh, làm gia tăng khả năng xảy ra các tội phạm do người nước ngoài nhập cảnh trái phép thực hiện. Khi thực hiện hành vi phạm tội, Lương Văn K có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội là nhằm mục đích vụ lợi từ việc đón và đưa người nhập cảnh trái phép đến xã N, huyện H giao cho người nhận để hưởng tiền công.
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo năn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bố bị cáo là ông Lương Văn K có quá trình tham gia phục vụ trong Q được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba; Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng Nhì, hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Ba; bị cáo đã tác động cho vợ là Nguyễn Thị Y nộp lại số tiền thu lợi bất chính 79.000.000 đồng (bảy mươi chín triệu đồng) được hưởng thêm 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo xuất trình thêm tài liệu mới: Giấy giấy chứng nhận thương binh của ông Lương Văn K (là bố đẻ bị cáo) là thương binh hạng 3/4 (có xác nhận của Phòng Lao động thương binh xã hội, Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh C) thể hiện gia đình bị cáo là gia đình chính sách, đây là tình tiết mới đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm vào khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo; xét thấy, bị cáo Lương Văn K có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; trên cơ sở đánh giá mức độ, tính chất hành vi phạm tội, việc khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, thái độ khai báo, chấp hành pháp luật, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Lương Văn K như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, để bị cáo có động lực tích cực tu dưỡng bản thân, cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình và xã hội, đồng thời cũng thể hiện được tính nhân đạo có tính giáo dục người lầm lỗi, đó là sự khoan hồng theo chính sách, đường lối của Đảng và pháp luật.
[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Lương Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Văn K; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh C về phần hình phạt đối với bị cáo Lương Văn K cụ thể:
Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn K phạm tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”.
Áp dụng điểm b, c, đ khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương Văn K 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giam là ngày 18-10-2022.
[2]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Lương Văn K không phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép số 507/2023/HS-PT
Số hiệu: | 507/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về