Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 76/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ FK, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 21 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố FK xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2021/HSST ngày 05 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Anh QA, sinh năm 1989, tại huyện B, tỉnh T; nơi cư trú: ấp B, xã A, huyện B, tỉnh T; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang Tịch (chết) và bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1965; có vợ nhưng đã ly hôn; anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là người thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt truy nã, bị tạm giữ từ ngày 12/5/2021 đến ngày 15/5/2021 chuyển tạm giam chođến nay, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Nguyễn Hữu BH, sinh năm 2000; nơi cư trú: tổ 22, ấp Vĩnh Hưng, xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, vắng mặt;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Nguyễn Bảo LN, sinh năm 1978; nơi cư trú: tổ 01, khóm 5, phường Châu Phú A, thành phố FK, tỉnh An Giang, vắng mặt;

- Ông Đỗ Văn HN, sinh năm 1960; nơi cư trú: tổ 14, khóm Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố FK, tỉnh An Giang, vắng mặt;

- Ông Huỳnh Thanh HT, sinh năm 1986; nơi cư trú: tổ 28, khóm Vĩnh Tây 1, phường Núi Sam, thành phố FK, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ, ngày 30/12/2019, Trần Nguyễn Bảo LN đến chơi tại quán giải khát “Cây xanh” thuộc khu vực khóm X, phường F, thành phố FK, thấy Nguyễn Hữu BH đang chơi bida, để ví trên bàn, lợi dụng sơ hở, LN lấy trộm ví da của BH, trong ví có 8.500.000 đồng, Giấy chứng minh nhân dân và Giấy phép lái xe của BH. Sau khi trộm được tài sản, LN dùng 1.500.000 đồng để mua ma túy và đến thuê phòng tại nhà nghỉ “Thanh Vân”, gọi điện rủ Trần Anh QA đến cùng sử dụng ma túy. Tại đây, LN nói cho QA biết vừa trộm được tiền, QA xin LN 1.200.000 đồng, xin ví da đem bán cho Huỳnh Thanh HT, lấy 250.000 đồng, xin Giấy chứng minh nhân dân, Giấy phép lái xe của BH, đem cầm cho Đỗ Văn HN, lấy 400.000 đồng tiêu xài, chuộc đồng hồ, máy tính bảng đã cầm cố. Vụ án được phát hiện, LN bị bắt, QA bỏ trốn.

Vật chứng thu giữ do Đỗ Văn HN, Huỳnh Thanh HT giao nộp: Giấy chứng minh nhân dân, Giấy phép lái xe hạng A1, tên Nguyễn Hữu BH; ví da nâu, có dòng chữ WEIER-POLO (đã xử lý trong vụ án xét xử đối với Trần Nguyễn Bảo LN).

Căn cứ Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 105/KL-ĐG ngày 12/5/2020 của Hội đồng Định giá tài sản, trong tố tụng hình sự thành phố FK, ghi nhận: Ví da màu nâu, có dòng chữ WEIER – POLO trị giá 100.000 đồng.

Ngày 05/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố FK ban hành Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Trần Anh QA.

Cáo trạng số 65/CT-VKSCĐ ngày 05/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố FK truy tố Trần Anh QA về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, không có ý kiến tranh luận và trong lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Trong phát biểu luận tội, Kiểm sát viên trình bày: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, thuộc thành phần nhân dân lao động, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại (Trần Nguyễn Bảo LN bồi thường thay cho bị cáo QA), phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo khi lượng hình.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 09 tháng đế 01 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Những vật chứng bị thu giữ đã xử lý trong vụ án xét xử đối với Trần Nguyễn Bảo LN nên không đề cập giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan HT, HN không yêu cầu trả lại khoản tiền giao dịch, LN không yêu cầu bị cáo thanh toán khoản tiền đã liên đới bồi thường thiệt hại trong vụ án đã xét xử nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên; Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.

[2] Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, những người này đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về nội dung:

[3] Hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận, sau khi LN lấy trộm ví tiền của BH, LN gọi điện rủ bị cáo đến nhà nghỉ Thanh Vân để cùng sử dụng ma túy. Tại đây, LN nói cho bị cáo biết vừa trộm được tiền và dùng tiền này mua ma túy sử dụng. Bị cáo xin LN 1.200.000 đồng để chuộc đồng hồ và máy tính bảng, xin ví da đem bán cho Huỳnh Thanh HT, lấy 250.000 đồng, xin Giấy chứng minh nhân dân, Giấy phép lái xe của BH, đem cầm cho Đỗ Văn HN, lấy 400.000 đồng, tiêu xài và mua ma túy sử dụng hết.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản khám nghiệm hiện trường cùng bản ảnh hiện trường; phù hợp với vật chứng được thu giữ (đã giao trả cho bị hại trong vụ án xét xử đối với Trần Nguyễn Bảo LN) cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ đó có đủ căn cứ xác định: Bị cáo biết rõ số tiền và những giấy tờ mà LN có được là do chiếm đoạt của người khác nhưng vẫn đồng ý cùng với LN tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến trật tự công cộng mà cụ thể là trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố FK và lời buộc tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tài sản hợp pháp của công dân phải qua quá trình lao động và tích lũy lâu dài mới có được. Vì lẽ đó, quyền sơ hưu tài sản của công dân đươc phap luât ghi nhận và bao vệ. Những ai có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất, là hình phạt.

Bị cáo đang trong độ tuổi lao động nhưng vì nghiện ma túy, lười lao động, muốn nhanh chóng có tiền để tiêu xài và sử dụng ma túy nên đã bất chấp vi phạm pháp luật, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội mà còn gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tự nguyện bồi thường thiệt hại. Đồng thời, thuộc thành phần nhân dân lao động, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoan 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong khi lượng hình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, trách nhiệm hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ đã giao trả cho bị hại trong vụ án xét xử đối với Trần Nguyễn Bảo LN nên không tiếp tục xem xét giải quyết.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và những người liên quan HT, HN không yêu cầu trả lại khoản tiền đã giao dịch, LN không yêu cầu bị cáo thanh toán khoản tiền đã liên đới bồi thường thiệt hại trong vụ án đã xét xử nên không xem xét giải quyết.

[9] Về các vấn đề khác: Đối với Trần Nguyễn Bảo LN thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, ngày 08/9/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố FK xử phạt 09 tháng tù và đã chấp hành xong nên không xem xét, giải quyết.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Trần Anh QA phạm tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có";

Xử phạt: Trần Anh QA 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo Trần Anh QA được tính kể từ ngày 12/5/2021 (ngày mười hai, tháng năm, năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

2. Căn cứ các Điều 135, 136 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Anh QA phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

506
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 76/2021/HS-ST

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về