Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 373/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 373/2023/HS-PT NGÀY 07/11/2023 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 07 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 332/2023/HSPT ngày 02/10/2023 đối với bị cáo Phạm Ngọc Minh T và Kim Minh D, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 115/2023/HS-ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Ngọc Minh T, tên gọi khác: Không, giới tính: Nam, sinh ngày:

27/9/1989, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Đ, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở hiện nay: Đ, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Phật, trình độ học vấn: 12/12, nghề nghiệp: Bốc xếp; con ông Phạm Ngọc T và bà Dương Khình L; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và có mặt tại phiên tòa.

2. Kim Minh D, tên gọi khác: Không, giới tính: Nam, sinh ngày:

13/01/1992, tại: tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú: D Tổ I, Khu phố D, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nơi ở hiện nay: Tổ D, khu phố Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ học vấn: 02/12, nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Kim T và bà Nguyễn Thị Tuyết H; hoàn cảnh gia đình: Có vợ và 02 người con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014, Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giam từ ngày 01/12/2022 đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 9/2022, Mai Xuân T (sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo tên Mai Xuân T) thỏa thuận với Kim Minh D (sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo tên T) thuê xe ô tô biển số 88C - 062.xx của Mai Xuân T để vận chuyển xe mô tô do phạm tội mà có từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Tây Ninh giao cho B (chưa rõ lai lịch; sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo tên GT) bằng phương thức: Khi có khách bán xe mô tô do phạm tội mà có, Kim Minh D sẽ thỏa thuận giá mua xe; sau khi thỏa thuận xong, Kim Minh D đưa số điện thoại của người bán cho Lê Thành N để Lê Thành N liên lạc, gặp mặt người bán để mua xe rồi điều khiển xe đến bãi xe số 79 TA13, Khu phố C, phường T, Quận L (là nơi Mai Xuân T thuê vị trí để xe). Nhân chụp ảnh biển số xe chuyển cho Kim Minh D để Kim Minh D gửi đến tài khoản mạng xã hội Zalo thông báo cho Mai Xuân T, B; nếu Mai Xuân T có mặt tại bãi xe thì Mai Xuân T đưa xe vào kho cất, nếu Mai Xuân T không có ở bãi xe thì Lê Thành N sẽ nói ông Phạm Văn C (là bảo vệ bãi xe) gửi xe cho Mai Xuân T để đưa vào vị trí để xe của Mai Xuân T, Mai Xuân T sẽ cất xe sau. Kim Minh D sẽ thỏa thuận giá mua bán xe theo một lô xe với B rồi Mai Xuân T vận chuyển xe đến cho B; B sử dụng tài khoản ngân hàng tên Hoang Thi H (chưa rõ số tài khoản và tên ngân hàng) chuyển vào tài khoản ngân hàng số 66662345xx mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Q tên Nguyễn Thị Thanh X (do vợ của Kim Minh D đứng tên đăng ký).

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/11/2022 tại nhà số B đường T, Phường H, Quận D của Lương Hoàng T, do cần tiền tiêu xài nên Huỳnh Anh T rủ Lương Hoàng T đi tìm người có tài sản để sơ hở thì chiếm đoạt, Lương Hoàng T đồng ý. Lương Hoàng T nói với Phạm Ngọc Minh T (là bạn của Lương Hoàng T đang ở nhà của Lương Hoàng T chơi) “mày cho tao mượn xe, anh Lương Hoàng T chở tao đi làm"; Phạm Ngọc Minh T nghe Lương Hoàng T nói biết rõ là Lương Hoàng T, Huỳnh Anh T mượn xe mô tô để đi chiếm đoạt tài sản nhưng vẫn đồng ý do nể Lương Hoàng T. Sau đó, Huỳnh Anh T điều khiển xe mô tô biển số 59X1-954.xx của Phạm Ngọc Minh T chở Lương Hoàng T đến số I đường N, phường B, Quận A thì phát hiện xe mô tô Honda Blade biển số 62M1-653.xx của chị Nguyễn Thị Thùy L để không có người trông coi nên Lương Hoàng T dùng đoản của Huỳnh Anh T mang theo bẻ khóa xe rồi điều khiển xe về nhà của Lương Hoàng T, Lương Hoàng T điều khiển xe mô tô của Phạm Ngọc Minh T đi theo sau. Đến khoảng 04 giờ ngày 18/11/2022 tại nhà của Lương Hoàng T, Lương Hoàng T nói Phạm Ngọc Minh T, Huỳnh Anh T mang xe mô tô Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T vừa chiếm đoạt được đi gửi; Phạm Ngọc Minh T biết rõ xe mô tô này là do Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T vừa phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý. Phạm Ngọc Minh T điều khiển xe môtô biển số 59X1-954.xx, Huỳnh Anh T điều khiển xe môtô biển số 62M1-653.xx đến bãi giữ xe Kizciti, công viên K, số B đường số D, Phường E, Quận D để gửi xe sau đó Phạm Ngọc Minh T chở Huỳnh Anh T đi về. Đến khoảng 06 giờ cùng ngày, qua mạng xã hội Fachat, Lương Hoàng T rủ 01 đối tượng tên P (chưa rõ lai lịch, sử dụng tài khoản mạng xã hội Messenger tên Cá Vàng) về nhà của Lương Hoàng T chơi. P nghe Lương Hoàng T nói cần bán xe mô tô vừa trộm cắp được thì P nói Lương Hoàng T gửi hình xe cho P; P giới thiệu bán xe cho Đặng Công T (sử dụng số điện thoại di động 07751370xx và tài khoản mạng xã hội Zalo tên Future Led) với giá 3.500.000 đồng. Sau khi Lương Hoàng T (sử dụng tài khoản Zalo tên Đéo có đéo cần) và Đặng Công T thỏa thuận xong thì P đưa số điện thoại di động 07751370xx của Đặng Công T cho Lương Hoàng T rồi đi về; Lương Hoàng T đưa lại số điện thoại di động trên của Đặng Công T cho Huỳnh Anh T để Huỳnh Anh T liên hệ. Tài (sử dụng số điện thoại di động 03546819xx) hẹn Đặng Công T đến khu vực bên hông Cầu L, Phường G, Quận F để bán xe. Đặng Công T đồng ý. Đặng Công T thấy xe do Huỳnh Anh T mang đến không có giấy tờ, ổ khóa bị cạy phá, không khóa cổ xe được nên Đặng Công T hỏi “xe chết ở đâu" thì Huỳnh Anh T trả lời “chết ở Quận A"; Đặng Công T biết rõ là Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T bán là xe do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý mua với giá 3.500.000 đồng sau đó Đặng Công T điều khiển xe đi về.

Đối với số tiền 3.500.000 đồng. Huỳnh Anh T lấy 1.750.000 đồng và chia cho Lương Hoàng T 1.750.000 đồng, Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T đã tiêu xài hết.

Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày, Đặng Công T (sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook tên KV) liên lạc với Kim Minh D (sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook tên Jack Ma) để bán xe mô tô biển số 62M1 - 653.xx, Kim Minh D biết rõ xe mô tô là do phạm tội mà có do đã từng mua xe của Đặng Công T nhiều lần nhưng vẫn đồng ý mua xe với giá 5.000.000 đồng. Qua mạng xã hội Zalo, Kim Minh D (sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo tên T) nói Lê Thành N (sử dụng tài khoản Zalo tên Bốc Bát Họ) liên lạc với Đặng Công T để mua xe và ứng tiền trước giùm Kim Minh D. Vào khoảng 18 giờ cùng ngày, Nhân hẹn Đặng Công T tại trước cổng Bệnh viện Triều An, Thành phố Hồ Chí Minh để lấy xe, Lê Thành N thấy xe mô tô Đặng Công T bán có ổ khóa bị hỏng, không có giấy tờ nên biết rõ là xe mô tô do phạm tội mà có nhưng vẫn ứng số tiền 5.000.000 đồng để mua xe mô tô. Sau đó, Nhân điều khiển xe về bãi xe số A và chụp ảnh biển số xe mô tô gửi cho Kim Minh D qua Zalo tên T rồi đi về. Vào tối cùng ngày, Kim Minh D sử dụng tài khoản ngân hàng số 66662345xx mở tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chuyển cho Lê Thành N số tiền 5.400.000 đồng vào tài khoản ngân hàng số 0602603555xx mở tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín tên Vũ Thị Kim O (là mẹ của Lê Thành N, Lê Thành N mượn tài khoản để sử dụng); trong đó, 5.000.000 đồng là tiền mua xe và 400.000 đồng là tiền công của Lê Thành N (Lê Thành N, Kim Minh D khai tiền công của Lê Thành N là 600.000 đồng nhưng Kim Minh D trừ 200.000 đồng là tiền Lê Thành N nợ Kim Minh D). Đồng thời, Kim Minh D chuyển tiếp hình ảnh xe cho Mai Xuân T, Bảo; do giữa Kim Minh D và B đã thỏa thuận nên Kim Minh D thông báo với B xe mô tô này là “xe nopp" tức là xe do phạm tội mà có. Ngày 20/11/2022, Mai Xuân T lấy xe mô tô biển số 62M1 - 653.xx để đưa vào kho cất thì thấy ổ khóa xe có chìa khóa nhưng không bật mở khóa được, không có giấy tờ nên Mai Xuân T biết đây là xe mô tô do phạm tội mà có. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/11/2022, Mai Xuân T đã vận chuyển xe mô tô trên và một số xe mô tô khác cho B, B đã trả số tiền 6.000.000 đồng là tiền mua xe mô tô biển số 62M1-653.xx cho Kim Minh D (trong tổng số tiền mua lô xe ngày 21/11/2022) là 61.700.000 đồng.

Qua điều tra xác định Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T, Phạm Ngọc Minh T, Mai Xuân T, Kim Minh D, Lê Thành N, Đặng Công T là người thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã đưa Lương Hoàng T, Huỳnh Anh T, Phạm Ngọc Minh T, Mai Xuân T, Kim Minh D, Lê Thành N, Đặng Công T về trụ sở để điều tra làm rõ (BL 288, 294, 295, 300, 305, 312, 319).

Theo Kết luận định giá tài sản số 325/KL-HĐĐGTS ngày 23/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 1 kết luận: 01 (một) xe môtô hiệu Honda Blade biển số 62M1-653.xx trị giá 14.100.000 đồng (BL 226-229).

Ngoài ra, Kim Minh D, Lê Thành N, Mai Xuân T còn khai nhận bằng thủ đoạn tương tự vào ngày 22/11/2022, Kim Minh D biết rõ 01 xe mô tô hiệu Yamaha PCX gắn biển số 11G1-023.16 là do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý mua của 01 đối tượng là thanh niên (chưa rõ lai lịch) và thuê Lê Thành N điều khiển xe về cất giữ tại bãi xe số A với tiền công là 600.000 đồng để Mai Xuân T vận chuyển cho B nhưng Mai Xuân T chưa vận chuyển thì đã bị bắt.

Theo Kết luận định giá tài sản số 338/KL-HĐĐGTS ngày 30/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 1 kết luận 01 (một) xe môtô hiệu Yamaha PCX được cấp biển số 83X1-156.99, hiện gắn biển số 11G1-023.16 trị giá 24.000.000 đồng (BL 232-235);

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 115/2023/HS-ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, đã:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Phạm Ngọc Minh T 09 (chín) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 5 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Kim Minh D 04 (bốn) năm tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2022, Buộc bị cáo Kim Minh D nộp phạt số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng sung vào công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử đối với các bị cáo Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T, Mai Xuân T, Lê Thành N, Đặng Công T và xử lý về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 18/8/2023 bị cáo Kim Minh D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 15/8/2023 bị cáo Phạm Ngọc Minh T kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Kim Minh D giữ nguyên yêu cầu kháng cáo;

bị cáo Phạm Ngọc Minh T bổ sung kháng cáo, xin được hưởng án treo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích về tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết định khung và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận, đủ căn cứ xác định bản án hình sự sơ thẩm xét xử: Bị cáo Phạm Ngọc Minh T, về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo Kim Minh D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm a khoản 2 Điều 323 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội không oan.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo Phạm Ngọc Minh T các tình tiết giảm nhẹ như: phạm tội lần đầu, ăn năn hối cải theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; áp dụng cho bị cáo Kim Minh D các tình tiết giảm nhẹ ăn năn hối cải theo s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để từ đó xét xử bị cáo Phạm Ngọc Minh T 09 tháng tù, bị cáo Kim Minh D 04 năm tù là phù hợp. Tại phiên toà bị cáo Phạm Ngọc Minh T xuất trình chứng cứ thể hiện bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho bị cáo, giảm mức hình phạt cho bị cáo từ 09 tháng tù xuống 06 tháng tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phạm Ngọc Minh T, Kim Minh D khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu, các bị cáo không tranh luận với đại đại diện Viện kiểm sát, bị cáo Phạm Ngọc Minh T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội chăm sóc gia đình, làm lại cuộc đời; bị cáo Kim Minh D xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội về chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phạm Ngọc Minh T, Kim Minh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã xét xử. Lời khai của bị cáo, bị hại p h ù h ợ p v ới các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 03 giờ 45 phút ngày 18/11/2022 tại trước cửa hàng G, I đường N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Phạm Ngọc Minh T, cùng các bị cáo Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T, có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô hiệu Honda, loại Blade, biển số 62M1-653.xx do chị Nguyễn Thị Ngọc Y làm chủ sở hữu, giao cho chị Nguyễn Thị Thùy L quản lý, sử dụng hợp pháp có trị giá 14.100.000 đồng.

Vào các ngày 22 và 23/11/2022 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Kim Minh D và các bị cáo Mai Xuân Mai Xuân T, Lê Thành N, Đặng Công T có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, cụ thể: Kim Minh D, Lê Thành N, Mai Xuân T biết rõ xe mô tô hiệu Honda Blade, biển số 62M1-653.xx và Kim Minh D, Lê Thành N, Mai Xuân T biết rõ xe mô tô hiệu Honda PCX, gắn biển số 11G1-023.16 là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý mua bán để hưởng lợi và tiền công.

Với hành vi trên, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử: Các bị cáo: Phạm Ngọc Minh T, Huỳnh Anh T, Lương Hoàng T về tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo: Mai Xuân T, Kim Minh D, Lê Thành N, Đặng Công T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Theo điểm a khoản 2, khoản 5 Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Phạm Ngọc Minh T, Kim Minh D làm đơn kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định là hợp lệ Xét kháng cáo của các bị cáo, khi xém xét hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xét đầy đủ tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khải báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt theo điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Phạm Ngọc Minh T áp dụng thêm tình tiết phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt nên áp dụng điểm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Kim Minh D phạm tội “02 lần trở lên” thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Từ đó, xử phạt bị cáo Kim Minh D 04 năm tù, bị cáo Phạm Ngọc Minh T 09 tháng tù là phù hợp, đã xem xét toàn diện.

Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo Kim Minh D không cung cấp thêm tình tiết mới nên không có căn cứ để xem xét; bị cáo Phạm Ngọc Minh T cung cấp thêm tài liệu thể hiện bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, xét thấy mức án mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Lập luận nêu trên cũng là quan điểm của Hội đồng xét xử về ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

[2] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định. Vì các lẽ nêu trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Ngọc Minh T và Kim Minh D, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 115/2023/HS-ST ngày 14/8/ 2023 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Căn cứ điểm a khoản 2, khoản 5 Điều 323, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Kim Minh D 04 (bốn) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2022.

Buộc bị cáo Kim Minh D nộp phạt số tiền 10.000.000 (mười triệu đồng) đồng sung vào công quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, Xử phạt: bị cáo Phạm Ngọc Minh T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 373/2023/HS-PT

Số hiệu:373/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về