Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 334/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 334/2022/HS-PT NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 16/8/2022, tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 263/2022/TLPT-HS, ngày 29/6/2022 đối với bị cáo Võ Thị Thanh D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2022/HS-ST, ngày 17/5/2022 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Võ Thị Thanh D, sinh năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Ấp X, xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; Tạm trú: đường Y, Phường G, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông THH (chết) và bà VTT; hoàn cảnh gia đình: Sống như vợ chồng với NHS và có 02 con (lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2014); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Hoài N sống chung với Lý Thị Lê T như vợ chồng, cả 02 không có việc làm ổn định nên N rủ T đi trộm cắp xe máy bán kiếm tiền tiêu xài. N và T điều khiển xe máy đến các khu dân cư trên địa bàn Quận 7, tìm xe gắn máy để sơ hở, không người trông coi để trộm cắp. N người trực tiếp dùng đoản sắt tự chế bẻ khóa xe máy lấy trộm, còn T thì đứng cảnh giới. Sau khi lấy xe, N đem bán cho NHS rồi đem tiền về đưa cho T cùng nhau tiêu xài. N và T cùng nhau liên tục trộm cắp nhiều xe gắn máy trên địa bán Quận 7, cụ thể như sau:

- Vụ thứ 1: Vào khoảng 13 giờ ngày 02/12/2020, N điều khiển xe máy hiệu Honda Wave màu đen biển số 54Z8-6282 chở T vào hẻm đường Nguyễn Văn Quý. Khi đến gàn nhà số 749/30 Nguyễn Văn Quỳ, Khu phố 1, phường Phú Thuận, Quận 7, N thấy 01 xe máy hiệu Honda Future, biển số 59C2-068.91 của ông Vũ Thế Chỉnh để không người trông coi. N nói T ngồi trên xe cảnh giới, còn N đến gần xe máy dùng dụng cụ mở khóa, phá ổ khóa lấy trộm cắp xe máy rồi cùng T đi tẩu thoát. Trịnh chạy về nhà, N đem xe máy vừa trộm được đến nhà NHS, Phường G, quận GV, nhờ bán. NHS liên lạc với (P không rõ nhân nhân lai lịch) hỏi giá xe và P đồng ý mua với giá 4.000.000 đồng. NHS báo lại cho N, xe trả giá mua với giá 4.000.000 đồng, N đồng ý bán. NHS kêu vợ là Võ Thị Thanh D đem tiền trả cho N. N cho NHS 500.000 đồng tiền cà phê. Sau đó, NHS đem xe đi bán cho P, lấy tiền 4.000.000 đồng đem về trả lại cho Bị cáo D. Bị cáo D và NHS đều biết xe N bán là do trộm cắp mà có.

Số tiền N bán xe được về đưa cho T 3.000.000 đồng để lo trong gia đình, N giữ 500.000 đồng tiêu xài cá nhân.

- Vụ thứ 2: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 05/01/2021, N điều hiển xe máy hiệu Honda Wave màu xanh biển số 59C2-990.44 chở T đi trộm cắp xe máy trên đường Nguyễn Thị Thập. Khi đến trước nhà số 153 Nguyễn Thị Thập, phường Tân Phú, Quận 7, N thấy 01 xe máy hiệu Honda Air Blade màu đỏ - đen, biển số 84G1-496.66 của anh Nguyễn Văn Tỵ dựng không có người trông coi. N nói T đứng ngoài cảnh giới, còn N đi đến gần xe máy dùng dụng cụ mở khóa, lấy trộm xe máy, rồi cùng T tẩu thoát. T chạy về nhà, còn N đem xe máy vừa trộm cắp được đến nhờ NHS bán. NHS liên lạc với P (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi giá xe và P đồng ý mua với giá 4.000.000 đồng. NHS nói lại cho N là xe mua với giá 4.000.000 đồng, N đồng ý bán. NHS kêu vợ là Võ Thị Thanh D đem tiền trả cho N. N cho NHS 500.000 đồng tiền cà phê. Sau đó, NHS đem xe đi bán cho P, lấy tiền 4.000.000 đồng đem về trả lại cho Bị cáo D. Bị cáo D và NHS đều biết xe N bán là do trộm cắp mà có.

Số tiền N bán xe được về đưa cho T 3.000.000 đồng để lo trong gia đình, N giữ 500.000 đồng tiêu xài cá nhân.

- Vụ thứ 3: Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 19/01/2021, N điều khiển xe máy hiệu Honda Wave màu xanh biển số 59C2-990.44 chở T đi trộm cắp xe máy trên đường Nguyễn Thị Thập. Khi đến trước cửa hàng “Circle K” địa chỉ 459/8A Nguyễn Thị Thập, phường Tân Quy, Quận 7, N thấy 01 xe máy hiệu Honda Air Blade màu trắng – đen biển số 66G1-400.31 của chị PTNN không có người trông coi. N nói T ngồi xe máy cảnh giới, còn N dùng dụng cụ mở khóa đi đến gần xe của chị Nhương bẻ ổ khóa điện, lấy trộm xe cùng T tẩu thoát. T đi xe máy một mình về nhà, còn N đem xe máy vừa trộm cắp đến Phường G, quận GV tiếp tục gặp NHS nhờ bán. NHS liên lạc với P (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi giá xe và P đồng ý mua với giá 3.500.000 đồng. NHS nói lại với N, xe mua với giá 3.500.000 đồng, N đồng ý bán. NHS kêu vợ là Võ Thị Thanh D đem tiền trả cho N 3.500.000 đồng, N cho NHS 500.000 đồng tiền cà phê. Sau đó, NHS đem xe đi bán cho P lấy 3.500.000 đồng đem về trả lại cho Bị cáo D. Bị cáo D và NHS đều biết xe N bán là do trộm cắp mà có.

Số tiền N bán xe được đưa cho T 2.500.000 đồng để lo trong gia đình, N giữ 500.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7, N, T, NHS, Bị cáo D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá tài sản số 470 ngày 20/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7, kết luận: 01 xe máy hiệu Honda Future biển số 59C2-568.91, có giá trị 16.000.000 đồng (xe không thu hồi được).

Kết luận định giá tài sản số 80 ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 7, kết luận:

+ 01 xe máy hiệu Honda Air Blade màu đỏ đen, biển số 66G1-400.31 có giá trị 145.00.000 đồng (xe không thu hồi được).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 75/2022/HS-ST ngày 17/5/2022 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Võ Thị Thanh D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Võ Thị Thanh D 01 (một) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần hình phạt đối với các bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/5/2022, bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm và cho bị cáo được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá về hành vi của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[2] Về kháng cáo của bị cáo và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:

Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo nằm trong thời hạn luật định là hợp lệ.

Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, xét Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhân thân tốt để áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Toà án cấp sơ thẩm cũng xem xét bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để cân nhắc khi lượng hình, từ đó xử phạt bị cáo mức hình phạt 01 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Mặt khác, trước và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng không xuất trình được tình tiết nào mới để Hội đồng xét xử xem xét.

Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Về các vấn đề khác:

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Võ Thị Thanh D 01 (một) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Về các vấn đề khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 334/2022/HS-PT

Số hiệu:334/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về