Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 23/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 02/04/2024 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 02 tháng 04 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh - tỉnh Khánh Hòa, đã mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2024/TLST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2024 đối với:

1. Bị cáo Trần Văn C (tên gọi khác: Rừng), sinh ngày 06/8/1995 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân A (chết) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1975; tiền án: không, tiền sự: Ngày 09/3/2023, bị Công an huyện Vạn Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích cho người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” số tiền 6.500.000đ. Nhân thân: Tại quyết định số 68/QĐ-TA ngày 14/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang chấp hành quyết định cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

2. Bị cáo Nguyễn Châu T (tên gọi khác: Rú), sinh ngày 18/8/1993 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H, sinh năm 1966 và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1969; có vợ là H An Rơ Nang; có 02 con, sinh năm 2016 và 2018; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Nguyễn Tr, sinh năm 1966; trú tại: Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Ông Trần Văn L, sinh năm 1962 và bà Lê Thị P, sinh năm 1960; trú tại:

Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; ông L, bà P vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h30’ ngày 20/10/2023, Trần Văn C một mình đi bộ đến đường đất nhỏ nằm bên hông Công ty chế biến hạt điều thuộc thôn P, xã V, huyện VN, tỉnh Khánh Hòa thì phát hiện 01 xe mô tô loại Yamaha Sirius mang biển số 79V1-161.. của Nguyễn Tr đang dựng ở gốc cây trong tình trạng khóa cổ và không có ai trông coi, nên C nảy sinh ý định trộm cắp xe bán kiếm tiền tiêu sài. C dùng cây kéo đã nhặt được trước đó đến bẻ khóa xe, rồi nổ máy xe chạy tẩu thoát. Trên đường đi C vứt bỏ cây kéo, rồi điều khiển xe chạy đến nhà Nguyễn Châu T ở thôn B – xã V. Gặp T thì C hỏi mượn 01 cây kìm rồi sử dụng tháo biển số 79V1 -161…. ra khỏi xe Sirius. Lúc này, C nói cho T biết xe là do C vừa trộm cắp được, đồng thời đề nghị T đổi xe Sirius biển số 79V1-161… lấy xe mô tô loại Dream mang biển số 79V1-165…. của T đang sử dụng thì T đồng ý. Sau đó, T tháo biển số 79V1-165…. của xe Dream ra, gắn vào xe Sirius rồi sử dụng làm phương tiện đi lại, giao xe Dream không biển số lại cho C, còn biển số xe 79V1-161….. thì đem cất giấu trong nhà T. Sau đó, hành vi của Trần Văn C và Nguyễn Châu T bị Cơ quan Công an phát hiện, T gắn lại biển số 79V1-161… cho xe Sirius rồi giao nộp cho Cơ quan Công an cùng với biển số 79V1-165…. Trần Văn C bị thu giữ xe mô tô loại Dream không biển số đổi của T và thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận định giá tài sản số 1096/KL-TCKH.TTHS ngày 24/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, số khung C690DY050436; số máy 5C6J050357, biển số 79V1-161… bị trộm cắp trị giá: 10.500.000đ (mười triệu năm trăm nghìn đồng).

* Qua quá trình điều tra, đã xác định được riêng Trần Văn C còn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản khác như sau:

Khoảng 11h00’ ngày 01/11/2023, Trần Văn C một mình đi bộ đến trại nuôi vịt của Trần Văn Lâm tại thôn T thôn P, xã V, huyện VN với mục đích xin trứng vịt về ăn, thì phát hiện 01 xe mô tô loại Honda Wave mang biển số 79V1- 399… của ông L đang dựng ở gốc cây cạnh trại nuôi vịt, trên ổ khóa xe có gắn sẵn chìa khóa. Nhìn thấy không ai trông coi nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt rồi lén lút trộm cắp xe mô tô này, rồi điều khiển xe chạy về nhà ở thôn P, xã V cất giấu để tìm nơi tiêu thụ. Sau đó, hành vi của Trần Văn C bị cơ quan Công an phát hiện, C thừa nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp xe mô tô trộm cắp.

Tại Kết luận định giá tài sản số 1094/KL-TCKH.TTHS ngày 24/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, số khung 0905HY471418; số máy JA39E0446576, biển số 79V1-399…bị trộm cắp trị giá: 11.400.000đ (mười một triệu bốn trăm nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKSVN ngày 12 tháng 03 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và truy tố bị cáo Nguyễn Châu T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Châu T 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Về trách nhiệm dân sự bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét; về vật chứng: Một cây kìm kim loại dài 16 cm, một đầu tay cầm có bọc nhựa màu đỏ in dòng chữ MEINFA, là công cụ dùng để thực hiện tội phạm, cần tịch thu tiêu hủy; tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên. Bị cáo Trần Văn C xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Các bị hại đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[1.2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

[2.1] Đối với bị cáo Trần Văn C: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; Kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cũng như qua phần xét hỏi công khai và tranh luận, có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 20/10/2023 tại khu vực đường đất bên hông Công ty chế biến hạt điều thuộc thôn P, xã V, huyện VN Khánh Hòa, Trần Văn C đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô loại Yamaha Sirius mang biển số 79V1-161… của ông Nguyễn Tr trị giá: 10.500.000 đồng. Ngoài ra, vào ngày 01/11/2023 tại trại nuôi vịt của ông Trần Văn Lâm thuộc thôn P, xã V, huyện VN, Trần Văn C đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô loại Honda Wave mang biển số 79V1-399… của ông L trị giá: 11.400.000 đồng. Tổng cộng tài sản thiệt hại trong hai lần Trần Văn C trộm cắp có giá trị: 21.900.000 đồng (hai mươi mốt triệu chín trăm nghìn đồng). Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” [2.2] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Châu T. Bị cáo T biết rõ chiếc xe máy Yamaha Sirius mang biển số 79V1-X là do bị cáo Trần Văn C phạm tội mà có. Nhưng bị cáo vẫn đồng ý đổi chiếc xe của bị cáo đang sử dụng để lấy chiếc xe bị cáo Trần Văn C vừa trộm cắp được. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” [2.3] Từ các nhận định trên, có đủ căn cứ khẳng định Cáo trạng số 25/CT- VKSVN ngày 12/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh truy tố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173, truy tố bị cáo Nguyễn Châu T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Đối với bị cáo Trần Văn C: Bị cáo là người có sức khỏe, nhưng không chịu lao động chân chính, mà chọn cho mình con đường phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo thực hiện hai lần phạm tội, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội từ hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có tiền sự, cụ thể: Ngày 09/3/2023, bị Công an huyện Vạn Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích cho người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Về nhân thân, ngày 14/12/2023 bị cáo bị Tòa án nhân huyện Vạn Ninh ban hành Quyết định số 68/QĐ-TA đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

Đối với bị cáo Nguyễn Châu T: Bị cáo cũng là người có sức khỏe, có đủ năng lực hành vi dân sự, nhưng vì vụ lợi, nên đã thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo góp phần gia tăng tỷ lệ phạm tội các tội xâm phạm sỡ hữu trên địa bàn.

Đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần xử phạt các các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, để cách ly các bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản phạm tội đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Riêng bị cáo Nguyễn Châu T chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51. Riêng bị cáo T còn được áp dụng điểm i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật an tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

[5.1] Một xe mô tô nhãn hiệu Halim, kiểu dáng Dream, số khung: LF3XCG0A7YAA00871, số máy VUMHMCT100003774, xe không có biển số và một biển số 79V1-165.. đã được cơ quan điều tra thu giữ, quá trình điều tra đã xác định được chiếc xe này là vật chứng trong một vụ trộm cắp khác. Công an huyện Vạn Ninh đang tạm giữ để xử điều tra theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xét.

[5.2] Một cây kìm kim loại dài 16 cm, một đầu tay cầm có bọc nhựa màu đỏ in dòng chữ MEINFA, là công cụ dùng để thực hiện tội phạm, cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn C 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 323, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Châu T 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không xét phần trách nhiệm dân sự đối với các bị hại do không yêu cầu.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy một cây kìm kim loại dài 16 cm, một đầu tay cầm có bọc nhựa màu đỏ in dòng chữ MEINFA. Vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/4/2024 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện Vạn Ninh với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vạn Ninh.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Văn C, Nguyễn Châu T, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 23/2024/HS-ST

Số hiệu:23/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về