TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 19/2020/HS-PT NGÀY 02/03/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 02 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 02/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Võ Quốc K do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đối với bản án hình sự sơ thẩm số 286/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang.
Bị cáo bị kháng nghị: Võ Quốc K, sinh ngày 02 tháng 5 năm 1973, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: Phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Ngọc K và bà Tống Thị C; Có vợ và chưa có con; Tiền án: Bị xử phạt 07 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án số 60/2016/HS-ST ngày 28/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang và 01 năm 03 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án số 152/2016/HS-ST ngày 26/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/01/2017; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bị truy tố, xét xử trong vụ án khác về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bị giam trong vụ án khác: Có mặt.
Ngoài ra còn có bị cáo Hồ Cao Đ không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 28 tháng 01 năm 2018, Hồ Cao Đ đi bộ đến trước quán nhậu tại phường V, thành phố N, phát hiện xe máy hiệu Yamaha Nouvo màu xám đen (trị giá 4.800.000đ) của chị Nguyễn Thị Kim D dựng trên vỉa hè không có người trông giữ, Đ dùng dụng cụ phá khóa mang sẵn theo người bẻ khóa xe rồi điều khiển xe đến nhà Võ Quốc K tháo biển số xe rồi bán cho K. Võ Quốc K biết rõ xe do Đ trộm cắp được nhưng vẫn đưa tiền cho Đ để lấy và giữ chiếc xe nói trên trong nhà cho đến khi bị cơ quan điều tra phát hiện, thu giữ (ngày 23/02/2018). Ngoài ra, Đ còn thực hiện 05 vụ trộm cắp khác với số tài sản trộm cắp được là 01 điện thoại Iphone 7 Plus và 04 chiếc xe máy khác. Tổng giá trị tài sản Đ trộm cắp được có giá trị là 42.030.000đ.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Hồ Cao Đ khai tất cả các xe máy bị cáo trộm cắp được bị cáo đều bán cho K, trong đó xe Yamaha Nouvo màu xám đen trộm cắp được của chị Nguyễn Thị Kim D bị cáo đã bán cho K với giá 1.500.000đ.
Võ Quốc K khai: K biết xe Yamaha Nouvo là xe do Đ trộm cắp do K thấy xe có đặc điểm giống như xe mà người quen của T bị mất và T nhờ K tìm giúp nên đã đưa cho Đ 500.000đ và giữ xe trong nhà đợi T tới. Khi T đến xem xe thì xe bị hư và T không chắc chắn có phải xe của người quen T hay không nên để xe lại nhờ K sửa. Bị cáo chưa kịp sửa xe thì cơ quan điều tra đến thu giữ. Ngoài ra, K không mua xe máy nào khác của Đ như Đ khai.
T khai tại cơ quan điều tra: Do biết K hay mua xe cũ nên khi biết chị D bị mất xe thì T có nhờ K tìm giúp. Sau đó K có điện nói đã tìm được xe, T đến xem nhưng không chắc có đúng xe của chị D không nên nói với K để về hỏi lại chị D nhưng sau đó T đi làm ở Đà Lạt nên không nói gì với chị D cho đến khi cơ quan điều tra thu giữ xe nói trên tại nhà của K. Việc biết chị D bị mất xe, có lúc T khai do chị D là mẹ nuôi của T, có lúc T khai do đến quán chị D nhậu và hỏi nhận viên trong quán nên biết.
Chị Nguyễn Thị Kim D khai: Chị không quen biết ai tên T và không nhờ ai tìm giúp xe Yamaha Nouvo màu xám đen chị bị mất vào ngày 28 tháng 01 năm 2018.
Tại bản Cáo trạng số 129/CT-VKSNT ngày 15 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố Võ Quốc K về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” đối với hành vi biết rõ chiếc xe Yamaha Nouvo màu xám đen là tài sản do Hồ Cao Đ trộm cắp mà có nhưng vẫn đưa 500.000đ cho Đ và giữ tài sản này trong nhà.
Tại bản án sơ thẩm số 286/2019/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã căn cứ khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Võ Quốc K 01 năm 03 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử phạt Hồ Cao Đ 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, xử lý vật chứng, quyết định trách nhiệm dân sự của Hồ Cao Đ, án phí đối với các bị cáo và và quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Ngày 18 tháng 12 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa có Quyết định số 07/QĐ-VKS-P7 kháng nghị bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị xét xử phúc thẩm về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tăng hình phạt đối với Võ Quốc K.
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Quốc K khai: Do được T nhờ tìm tài sản cho mẹ nuôi của T bị mất nên khi thấy Hồ Cao Đ sử dụng xe máy có đặc điểm giống như chiếc xe T nhờ tìm thì K biết đó là tài sản do Đ trộm cắp và K đã đưa tiền (500.000đ) cho Đ để Đ đưa tài sản này cho bị cáo giữ. Bị cáo cho là bản án sơ thẩm kết tội bị cáo đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.
Phát biểu tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị xét xử bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tăng hình phạt đối với Võ Quốc K theo như nội dung đã kháng nghị.
Bị cáo cho là bị cáo chỉ có hành vi chứa chấp tài sản do Hồ Cao Đ phạm tội mà có nên kháng nghị của Viện kiểm sát là không đúng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của T về việc nhờ bị cáo tìm tài sản bị mất cho người thân của T mâu thuẫn với lời khai của chị Nguyễn Thị Kim D về việc chị D khai không quen biết ai tên T và không nhờ ai tìm giúp tài sản bị mất.
[2] Lời khai của Hồ Cao Đ về việc bán cho Võ Quốc K chiếc xe Yamaha Nouvo và nói cho K biết đây là tài sản do Đ trộm cắp là phù hợp với lời khai của bị cáo về việc bị cáo biết rõ đây là tài sản do Đ trộm cắp và đã đưa 500.000đ cho Đ để Đ đưa tài sản này cho bị cáo giữ. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Bị cáo Võ Quốc K biết rõ tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn dùng tiền trao đổi để có tài sản này.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động điều tra xử lý tội phạm, tạo điều kiện cho người khác phạm tội. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” là chưa xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện các tình tiết của vụ án.
[4] Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nhưng cho là chỉ có hành vi “chứa chấp”, không “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là chưa thấy được tội lỗi của mình, chưa thực sự ăn năn hối cải.
[5] Từ những nhận định trên, kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ để chấp nhận.
Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, Sửa một phần bản án sơ thẩm:
Căn cứ Khoản 1 Điều 323, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, Xử phạt: Võ Quốc K 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 19/2020/HS-PT
Số hiệu: | 19/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về