Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 154/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 154/2022/HS-PT NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2022/TLPT-HS ngày 10/02/2022 đối với bị cáo Chương Huê A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2022/HSST, ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo :

Chương Huê A; sinh năm 1977, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú tại 666/19/24 C, phường 10, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch Việt Nam; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn lớp 3/12; Nghề nghiệp không; Con ông Chương A E và bà Dư Thị F; Chưa có vợ, con; tiền sự: Không.

Tiền án:

1/ Bản án số 10/HS-ST ngày 25/01/1996, Tòa án nhân dân Quận G tuyên phạt Chương Huê A 07 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2/ Bản án số 194/HSST ngày 13/6/2001 Tòa án nhân dân quận D tuyên phạt 20 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

3/ Bản án số 522/HSST ngày 13/4/2004 Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh tuyên phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; ngày 25/7/2008, Tòa án nhân dân quận Tân Phú tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

4/ Bản án số 59/HSST ngày 17/3/2011 Tòa án nhân dân quận Tân Phú tuyên phạt Chương Huê A 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; buộc nộp lại số tiền 9.000.000 (Chín triệu) đồng sung công quỹ nhà nước và bồi thường số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng cho bị hại.

Nhân thân:

Ngày 12/10/2020 Ủy ban nhân dân phường 9, Quận H ra Quyết định đưa vào Cơ sở xã hội thanh thiếu niên 2 để quản lý, cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý, trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đến ngày 13/11/2020, Ủy ban nhân dân phường 9, Quận H ra Quyết định hủy Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội thanh thiếu niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính hành chính, đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/3/2021; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 17 tháng 3 năm 2021, Nguyễn Thành I điều khiển xe mô tô biển số 59LA – 018.82 chở Đỗ Hùng Thanh J đi chơi. Khi đến trước nhà địa chỉ số 365/37, tổ 14, khu phố 4, phường Tân Thới Hiệp, Quận B, J nhìn thấy xe mô tô biển số 59G2-759.62 của chị Nguyễn Thị Trường dựng trước địa chỉ trên và không có người trông coi nên J rủ I lấy xe mô tô nêu trên thì Iđồng ý. Idừng xe lại và ngồi trên xe để cảnh giới, còn J thì bước xuống xe và đến lấy chiếc xe mô tô biển số 59G2-759.62 đẩy đến chỗ I đang đứng cảnh giới. Sau đó I điều khiển xe mô tô biển số 59LA – 018.82 và dùng chân phải đẩy xe mô tô biển số 59G2-759.62 do J điều khiển về nhà Iđể cất giấu.

Cất giấu chiếc xe trộm cắp xong thì Iđiều khiển xe mô tô biển số 59LA – 018.82 đến trước nhà địa chỉ số 111, đường Dương Thị Mười, Tổ 11, Khu phố 8, phường L thì xe bị hết xăng nên J mượn chiếc xe mô tô của bà Trần Thị Hồng là mẹ của J và chở Itrên đi tìm Phát chưa rõ lai lịch. Tại trước địa chỉ số 1007, đường Quang Trung, Tổ 62, Khu phố 9, Phường 14, quận M, J nhờ Phát bán giúp xe mô tô biển số 59G2-759.62 thì Phát đồng ý. Sau khi về nhà Ixem xe xong thì Phát gọi điện cho Chương Huê A để nhờ Cường bán giúp thì A nói với Phát là đợi A tìm được người mua sẽ gọi lại. A gọi điện thoại cho Bi chưa rõ lai lịch nói là có mô tô biển số 59G2-759.62 do phạm tội mà có, không có giấy tờ cần bán thì Bi đồng ý mua với giá 7.000.000 đồng. Sau đó, Phát điều khiển xe mô tô chưa rõ biển số chở Luân, còn J điều khiển xe mô tô biển số 59G2-759.62 đến nhà A, tại địa chỉ số 21/26, đường Phan Huy Ích, Phường 15, quận D và bán chiếc xe mô tô biển số 59G2-759.62 cho A, với số tiền 5.500.000 đồng.

Sau khi mua được chiếc xe mô tô biển số 59G2-759.62, theo yêu cầu của Bi, A điều khiển chiếc này đến trước hẻm 21, đường Phan Huy Ích, Phường 15, quận D để giao cho 02 đối tượng chưa rõ lai lịch và nhận 7.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 140/KL-ĐGTS ngày 26/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận B kết luận: Chiếc xe mô tô biển số 59G2-759.62 có giá trị là 14.500.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2022/HSST, ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

* Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Chương Huê A 4 (Bốn) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/01/2022 bị cáo Chương Huê A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản án sơ thẩm đã xử. Bị cáo xác định là biết rõ chiếc xe máy biển số 59G2- 759.62 là xe mà Nguyễn Thành Ivà Đỗ Hùng Thanh J trộm cắp mà có, nhưng bị cáo vẫn đồng ý mua để bán lại kiếm lời. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau:

- Các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Chương Huê A tại phiên tòa phúc thẩm đã có đủ căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi mua chiếc xe mô tô biển số 59G2-759.62 mà Nguyễn Thành Ivà Đỗ Hùng J trộm cắp được mà có và theo kết quả định giá tài sản thì chiếc xe trên có giá trị là 14.500.000 đồng. Do đó, cấp sơ thẩm truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo điểm đ khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là đúng pháp luật.

- Mức án 4 năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo gây ra. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Chương Huê A khai nhận mặc dù biết rõ chiếc xe gắn máy biển số 59G2-759.62 là do Nguyễn Thành Ivà Đỗ Hùng Thanh J trộm cắp mà có, nhưng do mục đích tư lợi nên bị cáo vẫn đồng ý mua với giá 5.500.000 đồng và đem chiếc xe này bán lại với số tiền 7.000.000 đồng. Theo Kết luận định giá tài sản số 140/KL-ĐGTS ngày 26/4/2021 của Hội đồng định giá trọng tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận B thì chiếc xe mô tô biển số 59G2-759.62 có giá trị 14.500.000 đồng. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử và kết tội bị cáo Chương Huê A về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo điểm đ khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo là có căn cứ, đúng luật.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Chương Huê A, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Mức án 4 năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm không phát sinh tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để giảm án cho bị cáo.

[5] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo phải chịu tiền án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chương Huê A. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 02/2022/HSST, ngày 06/01/2022 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt Chương Huê A 4 (Bốn) năm tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2021.

Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Chương Huê A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm, để sung vào ngân sách nhà nước.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 154/2022/HS-PT

Số hiệu:154/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về