TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 98/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 88/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
LONG PHI L; sinh năm 1997 tại Bình Thuận; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 5, thôn T P, xã X1, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Long Phi H, sinh năm 1976 và bà: Huỳnh Thị Đan T, sinh năm 1978; vợ, con: Không có.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/3/2023;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Công ty Cổ phần Thương mại B; trụ sở: 128 Trần Quang Khai, phường Tân Định, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Chu Thị H1, sinh năm 1990, chức vụ: Trưởng phòng tố tụng, theo Giấy ủy quyền số 148/2023/BHX/UQ ngày 07/8/2023.
Địa chỉ: Tòa nhà M, Đường D1, Khu công nghệ cao, phường T P, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Long Phi L là nhân viên của Công ty Cổ phần Thương mại B (gọi tắt là Công ty B). Ngày 19/7/2022, L được Công ty B ra Quyết định bổ nhiệm làm quản lý cửa hàng B tại số 55 C, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (về sau gọi là B - C). Công việc cụ thể: Quản lý tất cả mọi vấn đề của cửa hàng như nhân sự, hàng hóa, tiền bán hàng của cửa hàng và đem nộp tiền bán hàng về Công ty. Theo quy định của Công ty, tiền doanh thu bán hàng phải được quản lý hoặc trợ lý cửa hàng B mang ra ngân hàng nộp vào tài khoản của Công ty vào sáng ngày hôm sau. Đối với các khoản tiền doanh thu vào những ngày cuối tuần và sau khi ngân hàng đã đóng cửa, số tiền này lưu giữ lại tại két sắt của cửa hàng, đến ngày làm việc tiếp theo phải mang đến ngân hàng nộp vào tài khoản của Công ty B. Do đó, doanh thu tại cửa hàng B - C vào ngày 09/09, 10/09 và 11/09/2022 sẽ được lưu giữ tại két sắt trong cửa hàng và được mang ra ngân hàng nộp vào ngày 12/09/2022.
Vào lúc 09 giờ 31 phút ngày 12/09/2022, L đến Cửa hàng B - C làm việc, sau đó L đến vị trí để két sắt của cửa hàng kiểm kê số tiền doanh thu chưa nộp về Công ty B trong các ngày 09/09, 10/09, 11/09 và buổi sáng ngày 12/09/2022, với tổng số tiền là 281.581.989 đồng, L dùng dây thun buộc toàn bộ số tiền này lại và quấn vào tờ giấy A4 để ra Ngân hàng nộp tiền về cho Công ty B.
Do L có khoản nợ đến hạn phải thanh toán cho Công ty F, do không có tiền thanh toán nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của Công ty B bằng cách tự tạo một giao dịch thu hộ khống thanh toán khoản nợ thẻ F cho L với số tiền 43.000.000 đồng (thực chất là L lấy tiền trong tài khoản của cửa hàng B để trả nợ thẻ tín dụng của L cho Công ty F). Đến khoảng hơn 10 giờ cùng ngày, L mang toàn bộ số tiền trên để vào cốp xe máy của mình, đi mua cơm, uống cà phê. Tuy nhiên L không mang tiền đến ngân hàng nộp, đến 11 giờ 58 phút cùng ngày L quay lại cửa hàng B – C tiếp tục làm việc. Đến khoảng 14 giờ 03 phút, chị Danh T E (trợ lý của cửa hàng) đến làm việc ca chiều, lúc này L cũng ra về và không bàn giao lại số tiền 281.581.989 đồng cho chị T E mà chiếm đoạt toàn bộ số trên. Tổng số tiền L chiếm đoạt của Công ty Cổ phần Thương mại B là 324.581.989 đồng bao gồm: Doanh số bán hàng các ngày 09/09, 10/09, 11/09, sáng ngày 12/09/2022 và giao dịch thu hộ khống thanh toán nợ thẻ F cho L. Sau khi chiếm đoạt số tiền trên, L bỏ trốn ở nhiều nơi, tiêu xài hết số tiền trên, đồng thời bán xe máy của mình cho đối tượng không xác định lai lịch nên không thu hồi được.
Vật chứng vụ án:
- 01 (một) USB ghi nhận toàn bộ quá trình L chiếm đoạt tiền của cửa hàng B tại số 55 C, Phường X, Quận Y.
Quá trình điều tra, Long Phi L khai nhận toàn bộ quá trình chiếm đoạt tiền của cửa hàng B như trên. Đồng thời khai nhận, sau khi mang số tiền 281.581.989 đồng đến ngân hàng nộp về Công ty B thì L phát hiện bị mất 100.000.000 đồng (không biết mất ở đâu, khi nào), vì vậy mới nảy sinh ý định chiếm đoạt luôn số tiền còn lại. Tuy nhiên, L không đến cơ quan có thẩm quyền trình báo sự việc, cũng như không có ai biết sự việc L bị mất số tiền trên. Tiến hành thực nghiệm điều tra dựng lại hiện trường xác định khoảng thời gian L lấy tiền của cửa hàng B bỏ trong cốp xe máy rồi đi mua cơm, uống cà phê, xe máy trên trong tầm quan sát của L, vì vậy việc L khai bị mất 100.000.000 đồng là không có cơ sở.
Đến nay, Công ty Cổ phần Thương mại B yêu cầu Long Phi L bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt là 324.581.989 đồng.
Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS-TB ngày 04 tháng 7 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Long Phi L về tội “Tham ô tài sản” theo khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo từ 08 năm đến 09 năm tù giam.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lần đầu nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho Công ty Cổ phần Thương mại B số tiền 324.581.989 đồng.
Về vật chứng đề nghị xử lý theo qui định pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án dành cho bị cáo.
- Đại diện bị hại vẫn giữ yêu cầu Tòa án buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại số tiền bị cáo đã chiếm đoạt là 324.581.989 đồng. Trường hợp bị cáo không thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì đề nghị bà Huỳnh Thị Đan T là mẹ ruột của bị cáo thực hiện nghĩa vụ bồi thường theo Giấy cam kết ngày 23/02/2018.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Long Phi L, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với Bản kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra, Bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận: Bị cáo được bổ nhiệm chức vụ là quản lý cửa hành B tại 55 C, Phường X, Quận Y. Theo Quyết định bổ nhiệm L có nhiệm vụ và quyền hạn như sau: Quản lý nhân sự, toàn bộ hoạt động kinh doanh tại siêu thị B, được kiểm kê tiền và nộp tiền về Công ty B. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bị cáo có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao là quản lý cửa hàng B tại số 55 C, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (trực thuộc Công ty Cổ phần Thương mại B) để thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền trong các ngày 9/9, 10/9, 11/9 và sáng ngày 12/09/2022 của công ty B và tiêu xài hết số tiền 324.581.989 đồng. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, bị cáo là người có chức vụ, quyền hạn, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao đã chiếm đoạt tài sản mà bị cáo có trách nhiệm quản lý, nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản”, tội danh và hình phạt được qui định tại điểm d, khoản 2, Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi tham ô tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của tổ chức được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, vừa gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng lao động và nhận thức được hành vi tham ô tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, lười lao động nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.
[3] Về các tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên tòa bị cáo khai báo quanh co, không thành khẩn. Tuy nhiên, xét trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Công ty Cổ phần Thương mại B có bà Chu Thị H1 là người đại diện hợp pháp có yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 324.581.989 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại. Xét yêu cầu này là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về vật chứng:
- Đối với 01 USB chứa file ghi nhận diễn biến hình ảnh bị cáo mở két lấy tiền tại cửa hàng B – C (đang lưu kèm hồ sơ vụ án) là vật chứng của vụ án nên Hội đồng xét xử tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải bồi thường theo qui định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 353; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
[1] Tuyên bố bị cáo Long Phi L phạm tội “Tham ô tài sản”.
Xử phạt bị cáo: Long Phi L 09 (chín) năm tù giam.
Thời hạn tù tính từ ngày 20/3/2023.
[2] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Long Phi L có trách nhiệm bồi thường cho Công ty Cổ phần B số tiền 324.581.989 (ba trăm hai mươi bốn triệu năm trăm tám mươi mốt ngàn chín trăm tám mươi chín) đồng.
[3] Về vật chứng:
Tiếp tục lưu giữ 01 USB (Tình trạng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 142/PNK ngày 05/12/2022 của Công an quận Tân Bình) [4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Ngoài ra, bị cáo còn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 16.229.099 (mười sáu triệu hai trăm hai mươi chín ngàn không trăm chín mươi chín) đồng.
[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án về tội tham ô tài sản số 98/2023/HS-ST
Số hiệu: | 98/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về