TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 84/2023/HS-PT NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 38/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Phan Thành B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2023/HS-ST ngày 10 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Phan Thành B, sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Khu phố B, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Văn N, sinh năm 1968 và bà: Huỳnh Thị B1, sinh năm 1969; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên C (Công ty C) có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0313617136, đăng ký lần đầu ngày 13/01/2016. Ngày 01/06/2018, Công ty TNHH MTV C ra quyết định số 01/2018/QĐ thành lập chi nhánh với tên gọi Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên C - Chi nhánh N1, được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh số 0313617136 - 008, đăng ký lần đau ngày 12/06/2018.
Ngày 05/09/2021, Công ty TNHH MTV C - Chi nhánh N1 ký hợp đồng lao động vô thời hạn số 018629-21/HĐLĐ với Phan Thành B, chức vụ nhân viên giao nhận, làm việc tại Bưu cục B2, địa chỉ C Q, phường B, thị xã H, tỉnh Bình Định. Phan Thành B có nhiệm vụ nhận hàng hóa, bưu kiện tại Bưu cục 256B01 và giao cho khách hàng, thu tiền hộ và tiền cước vận chuyển. Phan Thành B có trách nhiệm khai báo công việc và hoàn chuyển tiền về cho Công ty trong ngày theo quy định tại thông báo số 09-18/TBCNNT.
Ngày 17/03/2022, B đến Bưu cục 256B01 nhận đơn hàng giao cho Lê Nguyễn Anh T thu hộ số tiền 1.400.000 đồng; ngày 27/03/2022, B nhận đơn hàng giao cho anh Phan Văn T1, thu hộ số tiền 1.700.000 đồng; ngày 28/03/2022, B nhận đơn hàng và giao cho chị Trần Thị Thu H, thu hộ số tiền 750.000 đồng; ngày 30/03/2022 B nhận 03 đơn hàng giao cho người nhận là Ngọc V thu hộ số tiền 514.300 đồng; giao cho anh Lê Đức H1 thu hộ số tiền 1.933.960 đồng; giao cho ông Đinh Việt H2, thu hộ số tiền 3.650.000 đồng, cước vận chuyển 137.000 đồng.
Trước khi giao hàng Binh đã dùng điện thoại chụp lại mã vạch được dán trên các đơn hàng. Sau khi giao hàng, thu tiền thành công Binh quét mã từ các hình ảnh đã chụp để báo trên hệ thống công ty là đơn hàng chưa giao thành công và không nộp tiền đã thu hộ về Bưu cục và đã chiếm đoạt số tiền là 10.117.260đ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2023/HS-ST ngày 10 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã H đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 353; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Thành B 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 10 và 20/02/2023, bị cáo Phan Thành B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo Phan Thành B 03 tháng tù.
Bị cáo Phan Thành B không bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong sơ vụ án thể hiện:
Bị cáo Phan Thành B đã lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt của Công ty TNHH MTV C tổng số tiền 10.117.260 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tham ô tài sản” là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phan Thành B, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Phan Thành B 12 tháng tù về tội “Tham ô tài sản” là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Lâm Ngọc V1 là đại diện Công ty TNHH MTV C có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã nộp lại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng khoản 3 Điều 54 BLHS giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thành B. Sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Thành B 06 (sáu) tháng tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Phan Thành B không phải chịu án phí HSPT.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tham ô tài sản số 84/2023/HS-PT
Số hiệu: | 84/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về