Bản án về tội tham ô tài sản số 814/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 814/2023/HS-PT NGÀY 19/10/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN  

Ngày 19 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số: 969/2023/TLPT-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Giáp Thị Tr. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2023/HS-ST ngày 19/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

1. Bị cáo có kháng cáo: Giáp Thị Tr, sinh năm 1991; HKTT: Phòng 1111, tòa V1 chung cư V-City, khu Hòa Đình, phường Võ C, thành phố Bắc N, tỉnh Bắc N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Giáp Văn Giang, sinh năm 1963 (đã chết) và bà Trương Thị C, sinh năm 1966; chồng là Yin Yong L, sinh năm 1987; có 04 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương; có mặt.

Người bào chữa do Tòa án chỉ định: Luật sư Đinh Anh T – Công ty Luật TNHH B, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt, nhưng tại phiên tòa bị cáo từ chối bào chữa.

2. Trong vụ án còn có: Bị cáo Yang Sheng W, bị cáo Nguyễn Văn H; bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH Dasan Prcision Product Vina (viết tắt là Công ty Dasan) có địa chỉ trụ sở tại khu Công nghiệp Đại Đồng, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, được Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh cấp Giấy chứng nhận đầu tư ngày 05/02/2018, với ngành nghề sản xuất các sản phẩm khuôn bằng kim loại từ hợp kim nhôm do ông Li Lian Yong, sinh năm 1978, quốc tịch Trung Quốc là người đại diện theo pháp luật và giám đốc công ty. Công ty Dasan có 02 xưởng sản xuất, trong đó xưởng 1 đặt tại trụ sở điều hành của Công ty; xưởng 2 thuê Công ty TNHH thương mại dịch vụ và sản xuất Tùng Lâm ở khu Công nghiệp Đại Đồng (cách xưởng 1 khoảng 01km). Tháng 4/2021, Yang Sheng W vào làm việc tại Công ty Dasan và được giao nhiệm vụ làm Trưởng ca tại Xưởng 2. Ngày 25/07/2021, ông Li Lian Yong - Giám đốc Công ty Dasan về nước và ký Quyết định số 25072021 bổ nhiệm Yang Sheng W giữ chức vụ “Quản lý sản xuất” xưởng 2 kể từ 01/8/2021. Yang Sheng W có nhiệm vụ “thực hiện các công việc được phân công, chịu trách nhiệm quản lý và báo cáo trước Giám đốc và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định. Được toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xưởng 2 khi Giám đốc vắng mặt. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến khi có quyết định khác về việc này được ban hành”. Quá trình Yang Sheng W (viết tắt là W) quản lý sản xuất, Xưởng 2 được chia theo 2 ca (ngày và đêm), ca ngày từ 08h00 đến 20h00, ca đêm từ 20h00 đến 08h00 sáng hôm sau, đứng đầu mỗi ca là trưởng ca, trong đó Yang Sheng W là trưởng 01 ca sản xuất. Nguyên liệu đầu vào tại Xưởng 2 chủ yếu là nhôm thỏi ADC 12 (hợp kim nhôm được đúc sẵn thành từng thanh màu trắng, mỗi thanh dài 69cm, rộng 09cm, cao 5,5cm, nặng 7,4kg) được mua của nhiều công ty, trong đó có mua của Công ty TNHH Vạn Lợi (Công ty Vạn Lợi), có địa chỉ trụ sở tại cụm Công nghiệp Đông Thọ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Việc nhập, xuất nguyên liệu cho sản xuất và toàn bộ công việc thuộc trách nhiệm của các trưởng ca và W. Các sản phẩm nhôm đúc được sản xuất tại Xưởng 2 sẽ được xuất về Xưởng 1 để tiếp tục gia công. Xưởng 2 không có kho riêng biệt để quản lý nguyên liệu hoặc sản phẩm và không có bảo vệ chuyên trách. Công tác quản lý nguyên vật liệu, tài sản do các trưởng ca và W quản lý. Cùng ca làm việc với W có Nguyễn Văn H là tổ trưởng tổ đúc và Giáp Thị Tr là công nhân kiểm tra chất lượng sản phẩm (QC). Đầu tháng 11/2021, trong quá trình quản lý sản xuất tại Xưởng 2, W trao đổi với Tr và H về việc lấy nhôm thỏi ADC 12 của Xưởng 2 do W chịu trách nhiệm quản lý mang bán lấy tiền tiêu sài, H và Tr đồng ý. W thấy xưởng 2 lắp đặt nhiều camera giám sát nên hỏi H có cách nào cắt được camera, H bảo chỉ cần cắt điện cấp cho camera là được, W đồng ý và bảo H “khi nào lấy dứt nó ra” (nghĩa là khi nào lấy nhôm sẽ cắt điện cấp cho camera). Sau khi thống nhất xong, W bảo Tr tìm người mua nhôm thỏi. Vì vậy, Tr liên hệ chào bán nhôm và đưa mẫu nhôm cho Triệu Thị Khánh L, L đồng ý mua với giá 49.000đ/kg. Sau khi L báo giá, Tr báo lại cho W biết giá bán nhôm thì W đồng ý. Sau đó, W, H và Tr đã bán nhôm nguyên liệu tại Xưởng 2 cho L, cụ thể như sau:

* Lần thứ nhất: Giữa tháng 11/2021, W bảo Tr gọi người mua nhôm đến lấy nhôm nên Tr liên lạc qua Zalo báo lại cho L biết. Sau đó, L không trực tiếp đến lấy hàng mà cho một người thanh niên (không rõ lai lịch) lái xe ô tô tải liên lạc với Tr để đến xưởng 2 lấy hàng. Khi xe ô tô chở hàng cho L gần đến xưởng 2 thì Tr báo cho H biết để chuẩn bị lái xe nâng hàng và cắt điện camera giám sát. Sau khi được Tr thông báo, H đi đến tủ điện lắp đặt trong phòng CNC của Xưởng 2 cắt cầu giao điện cấp cho camera giám sát. Khi xe chở hàng cho L vào xưởng, W chỉ cho H vị trí các kiện nhôm để bán gồm các thỏi nhôm nguyên liệu ADC 12 được xếp thành kiện để trên tấm pa lét. Thực hiện theo sự chỉ đạo của W, H lái xe nâng lần lượt nâng 04 kiện nhôm có tổng trọng lượng 3.469kg lên xe ô tô. Sau đó, Tr đến gặp và được L thanh toán cho số tiền là 170.000.000 đồng (3.469 kg x49.000đ/kg=1.69.981.000đ), Tr đưa lại cho W. Số tiền này, W chia cho Tr 40.000.000 đồng, H 20.000.000 đồng còn lại W hưởng 110.000.000 đồng.

* Lần thứ hai: Đầu tháng 12/2021, W bảo Tr gọi người mua hàng đến lấy nhôm, Tr liên lạc qua Zalo bảo L nhưng L chỉ đồng ý mua nhôm với giá 47.000 đồng/kg, Tr báo lại cho W biết người mua chỉ trả giá 47.000 đồng/kg, W đồng ý thì Tr bảo L đến lấy nhôm. Khoảng 06 giờ cùng ngày, người thanh niên lái xe tải (người và xe như lần 1) đến xưởng lấy hàng. Tr bảo H đi cắt điện camera và lái xe nâng nâng hàng, W chỉ vị trí 03 kiện nhôm có tổng trọng lượng 3.191kg để H nâng hàng lên xe ô tô chở đi.

Sau đó, Tr gặp và được L thanh toán cho số tiền là 150.000.000 đồng (3.191kg x 47.000đ=149.977.000đ), Tr đưa lại cho W. Số tiền này, W chia cho Tr 40.000.000 đồng, H 20.000.000 đồng, còn lại W hưởng 90.000.000 đồng.

Buổi chiều một ngày cuối tháng 12/2021, Nguyễn Khắc H là công nhân của Công ty Vạn Lợi mang nhôm thỏi ADC 12 đến Xưởng 2 giao cho W do Công ty Dasan đặt mua. Sau khi giao, nhận hàng xong, H chỉ tay về đống nhôm phế liệu hỏi W có bán không thì W lắc đầu và chỉ tay về hướng các kiện nhôm (không phải nhôm do Công ty Vạn Lợi bán cho Công ty Dasan), ý bảo bán nhôm thỏi cho H. Do không biết ngôn ngữ của nhau nên W gọi Tr ra để phiên dịch, lúc này H biết W chào bán các kiện nhôm thỏi ADC 12. W hỏi H “có mua không”, H bảo “bán giá bao nhiêu, được giá thì mua”, W bảo “mua được bao nhiêu” nhưng H chưa trả giá và xin mang mẫu nhôm về. W bảo Tr đưa cho H 01 thỏi nhôm ADC 12 rồi Tr và H trao đổi số điện thoại, kết bạn zalo với nhau để tiện liên lạc. Ngày hôm sau, H điện thoại qua zalo cho Tr bảo mua nhôm với giá 55.000 đồng/1kg, Tr báo lại cho W biết thì W đồng ý. Sau đó, W cùng Tr, H đã bán nhôm cho H, cụ thể:

* Lần thứ ba: Sáng ngày 31/12/2021, W bảo Tr liên hệ với H đến lấy nhôm, Tr liên hệ qua zalo báo H đến lấy nhôm, thanh toán tiền ngay, số lượng khoảng 04 tấn, H đồng ý. Khoảng 11h00 cùng ngày, H thuê xe ô tô tải BKS: 99C-185.16 do ông Trần Văn Tám điều khiển đi đến Xưởng 2. Tr báo H đi cắt điện camera và lái xe nâng, W chỉ vị trí 04 kiện nhôm có tổng trọng lượng 4.000 kg để H nâng lên xe ô tô bán cho H. Sau khi cho 04 kiện nhôm lên xe, H thanh toán tiền cho W tại văn phòng Xưởng 2 số tiền 220.000.000 đồng. Số tiền này, W chia Tr 80.000.000 đồng, H 20.000.000 đồng, W hưởng 120.000.000 đồng. Sau đó, W bảo với Tr từ giờ sẽ không lấy nhôm của Công ty bán nữa.

Ngày 01/01/2022, W cho H số điện thoại 0838.835.777 (số của H)bảo H liên hệ kiểm tra xem giá nhôm đã bán thế nào, mục đích là để W kiểm tra xem Tr bán có đúng giá không, H điện thoại hỏi H thì H nói giá vẫn như thế (55.000đ/kg) nên H báo lại cho W biết. W nói với H (viết trên điện thoại di động trên ứng dụng Google dịch) “từ lần sau bán nhôm cứ gọi vào số này”. Sau đó, W và H tiếp tục thực hiện chiếm đoạt nhôm của Công ty bán cho H, cụ thể như sau:

* Lần thứ tư: Ngày 15/01/2022, khi W và H đang làm ca đêm, W nói với H “tối nay xuất hàng” và bảo H gọi cho H đến lấy nhôm, thanh toán tiền ngay, số lượng khoảng 04 tấn. H điện thoại báo H biết thì H đồng ý và thuê xe ô tô tải của ông Tám để đi chở hàng. Khoảng 22h00 cùng ngày, khi xe ô tô của ông Tám gần đến nơi thì H cắt điện camera. Khi H cùng ông Tám đi xe ô tô đến Xưởng 2, W chỉ vị trí 04 kiện nhôm (không phải nhôm của Công ty Vạn Lợi) có tổng trọng lượng là 3.818 kg kiện nâng lên xe ô tô của ông Tám cho H. Sau đó, H thanh toán cho W số tiền 210.000.000 đồng. Số tiền này, W chia cho H 10.000.000 đồng, W hưởng 200.000.000 đồng.

* Lần thứ năm: Khoảng 12h00’ ngày 28/01/2022, với cách thức như lần thứ tư, W cùng H bán 04 kiện nhôm có tổng trọng lượng là 3.818kg cho H được 210.000.000 đồng. Số tiền này, W chia cho H 15.000.000 đồn, W hưởng 190.000.000 đồng.

* Lần thứ sáu: Khi vào làm tăng ca đêm ngày 13/02/2022, W viết trên ứng dụng Google dịch cho H biết “tối nay xuất nhôm, cũng như số lượng lần trước”. Khoảng 22h00’ cùng ngày với cách thức như lần thứ tư, W cùng H bán 03 kiện nhôm có tổng trọng lượng 2.727kg cho H được 150.000.000 đồn. W nói với H chuyến này không chia, để lần sau cho cả thể.

* Lần thứ bảy: Khoảng 18h30’ ngày 22/3/2022 khi W, H làm ca ngày và với cách thức như lần thứ tư, W cùng H bán 4 kiện nhôm có tổng trọng lượng là 3.636kg cho H được 200.000.000 đồng. Số tiền này, W chia cho H 8.000.000 đồng, W hưởng 192.000.000 đồng.

* Lần thứ tám: Khoảng 12h00’ ngày 27/3/2022, khi W, H làm ca ngày và với cách thức như lần thứ tư, W cùng H bán 04 kiện nhôm có tổng trọng lượng là 3.636kg cho H được 200.000.000 đồng. Số tiền này, W chia cho H 20.000.000đ, W hưởng 180.000.000 đồng. Sau khi thực hiện xong lần thứ tám, W nói với H từ giờ trở đi sẽ không chia cho H theo chuyến nữa mà cho H tiền theo tháng, mỗi tháng cho thêm 20.000.0000 đồng, H đồng ý.

* Lần thứ chín: Khoảng 10h00’ ngày 29/3/2022, khi W, H làm ca ngày và với cách thức như lần thứ tư, W cùng H bán 04 kiện nhôm có tổng trọng lượng là 3.636kg cho H được 200.000.000 đồng. Số tiền này, W giữ lại không chia cho H.

* Lần thứ mười: Chiều ngày 31/3/2022, khi H đang nghỉ phép, W tự liên hệ với H qua zalo thông qua ứng dụng Google dịch bảo H đến lấy nhôm. W trực tiếp đi cắt điện camera và điều khiển xe nâng để nâng 04 kiện nhôm có tổng trọng lượng 3.636kg bán cho H được 200.000.000 đồng. Số tiền này, W hưởng một mình. Lần này, W bán nhôm cho H, H không biết.

Tháng 4/2022, ông Li Lian Yong quay trở lại điều hành Công ty Dasan đã phát hiện nhôm nguyên liệu tại Xưởng 2 bị thiếu hụt nên tiến hành kiểm kê và trình báo Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh về việc Công ty Dasan bị thất thoát 43.232kg nhôm ADC-12, trị giá khoảng 2.913.000.000 đồng.

Bản kết luận định giá số 111, kết luận: “Giá 01 kg nhôm thỏi (loại hợp kim nhôm) ADC12 tại các thời điểm: Tháng 11/2021 là: 69.000 đồng/1kg; Tháng 12/2021 là: 67.500 đồng/1kg; Tháng 01/2022 là: 63.500 đồng/1kg; Tháng 02/2022 là: 63.500 đồng/1kg; Tháng 03/2022 là: 69.500 đồng/1kg”.

Như vậy, Yang Sheng W đã chiếm đoạt 35.567kg nhôm thỏi ADC12 có tổng trị giá là 2.393.612.000 đồng của Công ty Dasan (Lần 1 là 3.469kg x 69.000đ/1kg = 239.361.000đ; Lần 2 là 3.191kg x 67.500đ/1kg = 215.392.500đ; Lần 3 là 4.000kg x 67.500đ/1kg = 270.000.000đ; Lần 4 là 3.818kg x 63.500đ/1kg = 242.443.000đ; Lần 5 là 3.818kg x 63.500đ/1kg = 242.443.000đ; Lần 6 là 2.727kg x 63.500đ/1kg = 173.164.500đ; Lần 7 là 3.636kg x 69.500đ/1kg = 252.702.000đ; Lần 8 là 3.636kg x 69.500đ/1kg = 252.702.000đ;

Lần 9 là 3.636kg x 69.500đ/1kg = 252.702.000đ; Lần 10 là 3.636kg x 69.500đ/1kg = 252.702.000đ). Trong đó,Yang Sheng W trực tiếp tham gia 10 lần chiếm đoạt 35.567 kg nhôm, trị giá là 2.393.612.000 đồng, được hưởng lợi 1.637.000.000 đồng; Nguyễn Văn H tham gia 09 lần chiếm đoạt 31.931 kg nhôm, trị giá là 2.140.910.000 đồng được hưởng lợi 113.000.000 đồng; Giáp Thị Tr tham gia 03 lần chiếm đoạt 10.660 kg nhôm, trị giá là 724.753.500 đồng được hưởng lợi 160.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền hưởng lợi, W, H và Tr đều dùng để chi tiêu cá nhân hoặc mua sắm tài sản, trong đó W nộp 550.000.000đ đồng cho Công ty TNHH Nhân Đạt Tiến để đặt mua căn chung cư tại dự án Green Pearl Bắc Ninh theo Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số: 2802/2022/HĐMB ngày 22/03/2022 giữa bị can W và Công ty TNHH Nhân Đạt Tiến.

Theo Triệu Thị Khánh L khai nhận: Tr không chào bán nhôm cho L và L cũng không mua nhôm của Tr hoặc của Công ty Dasan. Cơ quan điều tra đã cho L và Tr đối chất nhưng các bên vẫn giữ nguyên lời khai.

Theo Nguyễn Khắc H khai nhận: Khi H mua nhôm thỏi của Yang Sheng W thì H nghĩ W là chủ xưởng có nhôm thỏi dư thừa khi sản xuất hoặc nhôm kém chất lượng không sản xuất được; các kiện nhôm thỏi W bán cho H không phải là nhôm thỏi của Công ty Vạn Lợi bán cho Công ty Dasan; việc mua, bán đều diễn ra tại thời điểm Xưởng 2 vẫn đang trong quá trình sản xuất. Do vậy, H không biết những thỏi nhôm đã mua của W là do W chiếm đoạt của Công ty Dasan. Sau khi mua được nhôm, H đã bán lại cho Mẫn Quang Thái (tên gọi khác Quân), sinh năm 1993 và Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1976, cùng trú tại thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, trong đó bán cho Thái 07 chuyến được 1.505.340.000 đồng, Nga 01 chuyến được 217.626.000 đồng. H được hưởng lợi 133.081.000 đồng. Tuy nhiên, Thái và Nga đều không thừa nhận đã mua nhôm của H. Cơ quan điều tra đã cho các bên đối chất nhưng các bên vẫn giữ nguyên lời khai. Vì vậy, Cơ quan điều tra chưa có cơ sở xác minh để thu hồi số nhôm của Công ty Dasan bị W chiếm đoạt bán cho H.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ, tạm giữ những đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 06/CT-VKSBN-P1 ngày 16/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Yang Sheng W và Nguyễn Văn H về tội “Tham ô tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 353 của Bộ luật Hình sự; Giáp Thị Tr về tội “Tham ô tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 353 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2023/HS- ST ngày 19/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, quyết định: Tuyên bố bị cáo Giáp Thị Tr phạm tội “Tham ô tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 353; điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Giáp Thị Tr 09 (Chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Yang Sheng W và bị cáo Nguyễn Văn H, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/6/2023, bị cáo Giáp Thị Tr kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Giáp Thị Tr giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết; ăn năn hối cải, cung cấp biên lai đã bồi thường hết cho bị hại, hiện nuôi 3 con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đề nghị giảm xuống mức thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, nhân thân, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo, kết luận: Bị cáo Giáp Thị Tr bị xử phạt về tội: “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 353 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 355, 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Giáp Thị Tr và sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo Tr từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm quy kết, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của bị cáo Yang Sheng W và bị cáo Nguyễn Văn H; lời khai bị hại; người làm chứng; Biên bản hiện trường; vật chứng thu giữ; Kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Cấp phúc thẩm thống nhất kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2021 đến tháng 3/2022, Yang Sheng W được giao nhiệm vụ “Quản lý sản xuất” tại Xưởng 2 của Công ty TNHH Dasan Precision Product Vina, có trụ sở tại khu Công nghiệp Đại Đồng, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Yang Sheng W đã có hành vi bàn bạc, thống nhất với Nguyễn Văn H và Giáp Thị Tr là công nhân làm cùng W, thực hiện 10 lần chiếm đoạt 36 kiện nhôm thỏi ADC 12 là nguyên liệu do W được giao trách nhiệm quản lý, có tổng khối lượng 35.567kg, trị giá là 2.393.612.000 đồng để bán cho người khác, thu được số tiền 1.910.000.000 đồng chia nhau tiêu xài cá nhân. Trong đó, W tham gia 10 lần chiếm đoạt 35.567kg nhôm trị giá là 2.393.612.000 đồng, được hưởng lợi 1.637.000.000 đồng; Nguyễn Văn H tham gia 09 lần chiếm đoạt 31.931 kg nhôm, trị giá là 2.140.910.000 đồng, được hưởng lợi 113.000.000 đồng; Giáp Thị Tr tham gia 03 lần chiếm đoạt 10.660 kg nhôm, trị giá là 724.753.500 đồng, được hưởng lợi 160.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Yang Sheng W và Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tham ô tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự; Hành vi của bị cáo Giáp Thị Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 353 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quy kết các bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Yang Sheng W và Nguyễn Văn H không có kháng cáo, kháng nghị nên bản án sơ thẩm đã có hiệu lực.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Giáp Thị Tr: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, lợi dụng chức vụ quyền hạn để xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác; vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, bị cáo Yang Sheng W giữ vai trò chính; các bị cáo Nguyễn Văn H và Giáp Thị Tr là người giúp sức; bị cáo Tr tham gia giúp sức 03 lần, H giúp sức 09 lần nhưng cấp sơ thẩm đánh giá vai trò của Tr như H là chưa phù hợp; Tr phạm tội nhiều lần bị áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Vì vậy, cấp phúc thẩm đồng tình cần có mức hình phạt thỏa đáng, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; bồi thường khắc phục hậu quả, bị cáo có thai, gia đình có công với Cách mạng, nên cấp sơ thẩm áp dụng điểm b, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt là có căn cứ. Căn cứ tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt Giáp Thị Tr 09 (Chín) năm tù là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, ngoài tình tiết giảm nhẹ cấp sơ thẩm đã áp dụng, bị cáo thực sự ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn và hiện nuôi 03 con nhỏ, do nhận thức pháp luật hạn chế nên đã phạm tội, bồi thường toàn bộ số tiền bản án sơ thẩm quyết định trả bị hại, nộp án phí sơ thẩm, chồng là người Trung Quốc thỉnh thoảng mới sang Việt Nam thăm con. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên cấp phúc thẩm tiếp tục áp dụng cho bị cáo được hưởng. Do có tình tiết giảm nhẹ mới, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4]. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được chấp nhận.

[5]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận, không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Giáp Thị Tr.

[2]. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 66/2023/HS-ST ngày 19/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.

Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 353; điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Giáp Thị Tr 07 (Bảy) năm tù, về tội: “Tham ô tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành án.

[3]. Về án phí: Bị cáo Giáp Thị Tr không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Ghi nhận bị cáo Giáp Thị Tr đã nộp đủ số tiền 63.200.000 (Sáu mươi ba triệu hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và số tiền khắc phục bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH Dasan Prcision Product Vina tại Biên lai số 0000322 ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 814/2023/HS-PT

Số hiệu:814/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về