Bản án về tội tham ô tài sản số 79/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 76/2023/TLST-HS ngày 07/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Văn H - sinh năm 1993; Nơi cư trú: thôn L, xã K, huyện Th, tỉnh D; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Nguyễn Thị N; vợ Vũ Thị H1 và 01 con; tiền án; tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 30/5/2023 tại Trại tạm giam Công an tỉnh D, có mặt;

- Bị hại: Công ty TNHH một thành viên chuyển phát nhanh TP, chi nhánh B. Địa chỉ: Đường L, phường V, thành phố B, tỉnh B.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Tr - Giám đốc, (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1973 (có mặt);

2. Anh Đặng Văn Th, sinh năm 1987 (vắng mặt)

3. Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1997 (vắng mặt)

4. Anh Vũ Xuân Q, sinh năm 2000 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 9 năm 2022, Lê Văn H làm hợp đồng tại Bưu cục K, địa chỉ: khu P, thị trấn Ph, huyện Th, tỉnh D (Bưu cục K trực thuộc Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh TP), công việc là Admin - nhân viên bưu cục. Theo quy định của Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh TP - Chi nhánh B, H có trách nhiệm bàn giao hàng hoá cho nhân viên giao nhận (shipper) vào buổi sáng hàng ngày và trước 20 giờ cùng ngày có trách nhiệm nhận bàn giao các đơn hàng chưa phát thành công từ các shipper; định kỳ 02 lần/01 ngày thực hiện thống kê, chốt sổ tiền và đôn đốc các shipper nộp đủ 100% số tiền hàng thu hộ (tiền COD), cước đã phát thành công; định kỳ 2 lần/ngày (trước 10 giờ sáng và trước 16 giờ hàng ngày), số tiền thu được từ shipper phải được nộp 100% về tài khoản chuyên thu của Chi nhánh, trường hợp thu tiền buổi tối phải phối hợp cùng quản lý bưu cục kiểm kê và đối chiếu thực tế; tiền thu được ngày hôm trước bằng bất cứ lý do nào sáng ngày hôm sau cũng phải chuyển tiền về tài khoản của Công ty. Trong các ngày 25, 26 và 27 tháng 11/2022, H đã thu tiền COD và tiền cước từ các shipper là anh Đặng Văn Th và anh Hoàng Văn C với tổng số tiền là 51.828.000 đồng, cụ thể: Ngày 25/11/2022, thu của anh Th 3.744.000 đồng, anh C 16.940.000 đồng; Ngày 26/11/2022, thu của anh Th 6.110.000 đồng, anh C 9.637.000 đồng; Ngày 27/11/2022, thu của anh Th 648.000 đồng, anh C 14.749.000 đồng. Sau khi thu được số tiền trên, H không bàn giao số tiền này về tài khoản chuyên thu của Công ty theo quy định. Ngày 28/11/2022, H gặp anh Vũ Xuân Q là quản lý Bưu cục xin phép nghỉ để đưa con đi Bệnh viện. H đưa cho anh Q 6.633.858 đồng nhờ nộp hộ về Công ty. Số tiền còn lại là 45.194.142 đồng, H sử dụng chi tiêu vào mục đích cá nhân. Ngày 23/12/2022, Công ty TNHH MTV Chuyển phát nhanh TP - Chi nhánh B đã làm đơn tố giác hành vi của H gửi Công an huyện Th.

Tại Cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 05/9/2023,Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim thành truy tố Lê Văn H về tội "Tham ô tài sản" theo điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tham ô tài sản”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 353; điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt Lê Văn H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm ngày 30/5/2023 - Về hình phạt bổ sung không áp dụng.

- Trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết;

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Luật án phí và lệ phí 2015; Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

+ Bị cáo nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Th, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại các bản cung trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, loại tài sản bị cáo chiếm đoạt, cũng như các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: “Lê Văn H là Admin nhân viên của Bưu cục K (trực thuộc Công ty TNHH MTV chuyển phát nhanh TP - Chi nhánh B), có trách nhiệm thu tiền COD, tiền cước từ các shipper; số tiền thu được phải nộp 100% về tài khoản chuyên thu của Chi nhánh định kỳ 2 lần/ngày. Từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 11/2022, lợi dụng quyền quản lý số tiền 45.194.142 đồng nhận từ các shipper (mỗi ngày đều trên 2.000.000 đồng), H đã không chuyển tiền về tài khoản chuyên thu của Công ty theo quy định mà chiếm đoạt số tiền trên dùng vào mục đích cá nhân. Bị cáo lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý cấu thành tội Tham ô tài sản được quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo chiếm đoạt số tiền của 03 ngày khác nhau, mỗi ngày đều đủ định lượng cầu thành tội phạm lại chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm, bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát Nhân dân huyện Th là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và tài sản của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý không tốt trong quần chúng nhân dân cần có mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo bị truy tố, xét xử ở khoản 2 nhưng số tiền bị cáo chiếm đoạt được chỉ đủ định lượng quy định ở khoản 1 Điều 353 Bộ luật Hình sự, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gây thiệt hại không lớn quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, đã tác động gia đình bồi thường phần lớn số tiền còn thiếu cho bị hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự [6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tính chất hành vi, nhân thân của bị cáo không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt không có yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 353; điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội "Tham ô tài sản".

2. Xử phạt bị cáo Lê Văn H 07 (bẩy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 30/5/2023.

3. Hình phạt bổ sung Không áp dụng.

4. Về trách nhiệm dân sự: Không giải quyết.

5.Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 79/2023/HS-ST

Số hiệu:79/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về