Bản án về tội tham ô tài sản số 61/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 61/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2022 Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Xuân L, Tên gọi khác: không; Giới tính: nam; Sinh ngày 25/01/1980 tại N - T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: nhân viên công ty TNHH V ; Chức vụ: Chủ tịch công đoàn cơ sở Công ty TNHH V; Trình độ học vấn: 12/12; Nơi đăng ký HKTT: Khu 4, xã Trị Q, huyện N, tỉnh T; Con ông: Hoàng Văn S, sinh năm 1959; Con bà: Trần Thị D, sinh năm 1960; Anh chị em: có 04 người, bị cáo là lớn nhất; Vợ: Trần Lê G, sinh năm 1982; Con: có 02 con. Con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016.

- Tiền án: có 01 tiền án.

Bản án hình sự sơ thẩm số 08 ngày 28/02/2020 của TAND thị xã T xử phạt Hoàng Xuân L 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội đánh bạc, đã chấp hành xong hình phạt theo giấy chứng nhận số 08 ngày 12/4/2021 của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an huyện N. Tháng 4/2021 đã chấp hành xong tiền phạt bổ sung và án phí .

Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/02/2022 chuyển tạm giam từ ngày 22/2/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Chu Văn Q - Luật sư công ty luật hợp danh Hùng Vương T - Đoàn luật sư tỉnh T.

Địa chỉ: SN 164 đường Minh L, phường Tiên C, thành phố Việt T, tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người bị hại: Công Đoàn cơ sở Công ty TNHH V;

Địa chỉ: Khu công nghiệp Phú H, thị xã T, tỉnh T Người đại diện theo pháp luật: Ông Phùng Ngọc T - Chủ tịch Công đoàn. (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thùy D, sinh năm 1995; Địa chỉ: Đội 9, xã Thụy V, thành phố Việt T, tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Chị Hà Thị H, sinh năm 1995; Địa chỉ: Khu 1, xã Thanh M, thị xã T, tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

3. Chị Hán Thị Hải Y, sinh năm 1991; Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Phong C, huyện N, tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

4. Ông Hoàng Văn S, sinh năm 1959; Địa chỉ: Khu 4, xã Trị Q, huyện N, tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

5. Chị Trần Lê G, sinh năm 1982; Địa chỉ: Khu 4, xã Trị Q, huyện N, tỉnh T. (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH V (sau đây viết tắt là Công ty A) là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập và hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 2600978813 do Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh T cấp lần đầu ngày 28/3/2017, thay đổi lần 4 ngày 02/12/2020 có địa chỉ tại lô CN07A, KCN Phú H, thị xã T, tỉnh T; Ngành nghề sản xuất kinh doanh là sản xuất, gia công thiết bị điện tử; Ông Yun Byung G, sinh năm 1970 - Tổng Giám đốc Công ty là người đại diện theo pháp luật.

Ngày 18/6/2018, Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh T ban hành Quyết định số 205 ngày 18/6/2018 đã chỉ định Ban chấp hành lâm thời công đoàn cơ sở Công ty A trực thuộc Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh T gồm 07 người, Hoàng Xuân L, sinh năm 1980 trưởng phòng Glasstic của công ty A được chỉ định làm Chủ tịch Công đoàn Công ty. Ngày 27/7/2019, Đại hội Công đoàn Công ty A lần thứ I nhiệm kỳ 2019 – 2024 đã bầu ban chấp hành công đoàn cơ sở gồm 15 ủy viên, trong đó Hoàng Xuân L được bầu làm Chủ tịch Công đoàn cơ sở Công ty TNHH V và đã được Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh T có quyết định công nhận.

Công đoàn Công ty A có con dấu và tài khoản riêng số: 12100005xxxx mở tại Ngân hàng TMCP Công Thương V - Chi nhánh Thị xã T do Hoàng Xuân L làm chủ tài khoản; chị Lương Thị T- Thủ quỹ; chị Nguyễn Thùy D, sinh năm 1995, trú tại: Xã Thanh Minh, thị xã T, tỉnh T giữ vai trò kế toán từ 05/8/2019 đến tháng 01/2021; chị Hà Thị H, sinh năm 1995, trú tại: Xã Thanh Minh, thị xã T, tỉnh T giữ vai trò kế toán từ tháng 01/2021 đến tháng 08/2021 và chị Hán Thị Hải Y, sinh năm 1991, trú tại: TT Phong Châu, huyện N, tỉnh T giữ vai trò kế toán từ tháng 8/2021 đến tháng 2/2022. Mặc dù là thủ quỹ của Công đoàn Công ty nhưng chị Lương Thị T không quản lý quỹ tiền mặt mà đều do kế toán của Công ty là chị Nguyễn Thùy D, Hà Thị H và Hán Thị Hải Y quản lý theo sự phân công của Hoàng Xuân L.

Công đoàn Công ty có 02 nguồn thu chính gồm: " Nguồn thu đoàn phí công đoàn (1% mức tiền lương tối thiểu vùng);”) Nguồn thu kinh phí công đoàn (2% mức tiền lương tham gia BHXH). Tổng số tiền thu được nộp vào tài khoản của Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh T sau đó được trích trả lại một phần cho Công đoàn Công ty A để sử dụng, quyết toán theo quy định.

Theo chứng từ, sổ sách kế toán của Công đoàn Công ty A đã xác định tính đến ngày 17/2/2022 trên sổ sách theo dõi thể hiện số tiền còn tồn quỹ của Công đoàn Công ty A phải là: 1.727.749.932. Nhưng thực tế đến ngày 17/2/2022 (ngày kiểm quỹ) số tiền tồn quỹ Công đoàn Công ty A chỉ còn 184.349.932, trong đó: Tồn quỹ tiền mặt là 129.239.300đ và số dư tài khoản tiền gửi là 55.110.632đ, thiếu hụt số tiền 1.543.400.000 đồng. Quá trình điều tra đã làm rõ trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 đến tháng 01/2022, Hoàng Xuân L đã chiếm đoạt số tiền quỹ là: 1.543.400.000 đồng trên để sử dụng cá nhân, cụ thể như sau:

Là chủ tịch Công đoàn Công ty A, Hoàng Xuân L có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu, chi, quản lý tài chính theo phân cấp; xây dựng dự toán, tổ chức thực hiện công khai dự toán, quyết toán tài chính công đoàn đúng quy định của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Nhưng từ tháng 12/2020 đến tháng 01/2022, trong quá trình quản lý tài chính của Công đoàn Công ty, Hoàng Xuân L không thực hiện đúng quy định về quản lý tài chính, nhiều lần yêu cầu nhân viên kế toán của Công đoàn là chị Nguyễn Thuỳ D, Hà Thị H và Hán Thị Hải Y giao tiền cho mình từ quỹ tiền mặt hoặc lập chứng từ để L tự đi rút tiền từ tài khoản tiền gửi sau đó tự giữ lại để quản lý, sử dụng. Khi yêu cầu nhân viên kế toán đưa tiền mặt hoặc yêu cầu lập chứng từ rút tiền từ tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, Hoàng Xuân L đều nói: “Để L quản lý, sử dụng cho hoạt động của Công đoàn Công ty, khi có chứng từ sẽ chuyển lại để bộ phận kế toán hạch toán trên sổ sách kế toán”. Vì là kế toán kiêm nhiệm của Công đoàn, không được đào tạo về lĩnh vực kế toán và tin tưởng Hoàng Xuân L là chủ tài khoản, sẽ có trách nhiệm quản lý và sử dụng tiền quỹ Công đoàn đúng quy định, nên chị D, chị H và chị Y đã thực hiện theo yêu cầu của Hoàng Xuân L, không biết Hoàng Xuân L sau đó đã chiếm đoạt sử dụng cá nhân, gây thiệt hại cho Công đoàn Công ty A số tiền: 1.543.400.000 đồng. Cụ thể:

Tháng 12/2020, Hoàng Xuân L yêu cầu chị Nguyễn Thùy D đưa cho L số tiền: 90.000.000 đồng từ quỹ tiền mặt Công đoàn;

- Từ ngày 08/2/2021 đến ngày 13/8/2021, Hoàng Xuân L đã yêu cầu chị Hà Thị H chuyển cho L số tiền: 19.000.000 đồng từ quỹ tiền mặt; L tự mình con trực tiếp rút từ tài khoản tiền gửi của Công đoàn Công ty A được tổng số tiền 1.261.000.000 đồng nhưng chỉ chuyển cho chị H để nộp quỹ tiền mặt số tiền 170.000.000 đồng, L tự ý giữ lại để sử dụng số tiền: 1.091.000.000 đồng. Tổng số tiền quỹ công đoàn của công ty A L đã sử dụng cá nhân trong giai đoạn này là: 1.110.000.000 đồng - Từ ngày 21/8/2021 đến ngày 17/01/2022, Hoàng Xuân L đã yêu cầu chị Hán Thị Hải Y đưa cho L số tiền 50.200.000 đồng từ quỹ tiền mặt; L tự mình trực tiếp rút từ tài khoản tiền gửi của Công đoàn Công ty A được tổng số tiền 735.000.000 đồng nhưng chỉ chuyển cho chị Y để nộp quỹ tiền mặt số tiền: 441.800.000 đồng, L tự ý giữ lại số tiền: 293.200.000 đồng. Tổng số tiền quỹ công đoàn của Công ty A L đã sử dụng cá nhân trong giai đoạn này là:

1343.400.000 đồng Sau khi yêu cầu nhân viên đưa tiền từ quỹ tiền mặt và giữ lại tiền trong quá trình rút tiền từ tài khoản của Công đoàn Công ty A với tổng số tiền là: 1.543.400.000 đồng, Hoàng Xuân L không hoàn trả lại số tiền này cho Công đoàn Công ty A mà chiếm đoạt sử dụng cá nhân hết.

Hết năm tài chính, mặc dù đã sử dụng cá nhân hết số tiền 1.543.400.000₫ nêu trên nhưng Hoàng Xuân L vẫn báo cáo tồn quỹ số tiền này trên sổ sách kế toán Công đoàn Công ty A vì vậy Uỷ ban kiểm tra Công đoàn Công ty A và Công đoàn các Khu công nghiệp T chỉ có trách nhiệm kiểm tra chứng từ thu, chi; hạn mức thu, chi theo dự toán được duyệt, không phải tiến hành kiểm quỹ nên không phát hiện số tiền tồn quỹ bị thiếu hụt do hành vi chiếm đoạt tiền quỹ của Hoàng Xuân L. Đến ngày 09/2/2022, Ban Chấp hành Công đoàn Công ty không có tiền chi trả chế độ thưởng Tết cho người lao động, chị Hán Thị Hải Y - kế toán của Công đoàn cơ sở Công ty A đã có đơn tố giác Hoàng Xuân L đến Co quan điều tra Công an tỉnh T. Ngày 13/2/2022, Hoàng Xuân L đã đến Cơ quan CSĐT – Công an thị xã T để đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra vụ án, Hoàng Xuân L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Như vậy, trong thời gian từ tháng 12/2020 đến ngày 17 tháng 01 năm 2022, Hoàng Xuân L đã lợi dụng chức vụ quyền hạn là chủ tịch công đoàn, chủ tài khoản đã chiếm đoạt số tiền 1.543.400.000₫ của công đoàn cơ sở Công ty TNHH V đã cấu thành tội Tham ô tài sản.

Vật chứng, đồ vật, tài liệu, tài sản bị thu giữ, tạm giữ:

- Đồ vật tài liệu khi khám xét nhà của Hoàng Xuân L gồm:01 hợp đồng tín dụng số 2709LAV202102951 ngày 22/10/2021 giưa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện N và bà Trần Lê G; 01 phụ lục hợp đồng theo dõi dư nợ và thu nợ trong hạn, chuyển nợ quá hạn; 01 bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 758747 mang tên Hoàng Xuân L và Trần Lê G; 01 phiếu cung cấp thông tin giá thị trường số 2110228/2021/PTT-AVV ngày 22/10/2021 của Công ty cổ phần tư vấn và thẩm định giá A – được chuyển theo hồ sơ vụ án.

01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Xuân L và 01 điện thoại nhãn hiệu Pixel 4XI thu giữ khi tiếp nhận bị can ra đầu thú ngày 13/02/202 đã đượctrả lại cho gia đình bị can( B1 120A);

- Tạm giữ số tiền 101.380. 000 đồng; Trong đó 100.000.000 đồng do ông Hoàng Văn S - bố của bị can tự nguyện giao nộp để khắc phục một phần hậu quả do hành vi của bị can Hoàng Xuân L gây ra và 1.380.000 đồng thu giữ khi bị can ra đầu thú, được nộp vào tài khoản tạm giữ số 3949.0.9044149.00000 của Công an tỉnh T tại kho bạc nhà nước tỉnh T ngày 05/9/2022.

Kết quả xác minh tài sản của các bị can xác định: bị can cùng vợ đang sở hữu 01 ngôi nhà cấp 4 diện tích 164m2 được xây dựng trên thửa đất số 155 tờ bản đồ 8R có diện tích 265m2 tại khu 4, xã Trị Q, huyện N, tỉnh T.

Xét nguyên nhân, động cơ, mục đích và tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra: Hành vi tham ô tài sản do các bị can Hoàng Xuân L đã gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất đi nguồn kinh phí của tổ chức Công đoàn cơ sở Công ty V.

Bị cáo với động cơ cá nhân, mục đích vụ lợi chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của tổ chức công đoàn, ảnh hưởng đến chính sách, chủ trương của nhà nước, của địa phương, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ở Công ty V gây dư luận không tốt trên địa bàn tỉnh T nên cần phải được xử | Nhận hồ sơ ngày 18.12)... lý theo quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của Hoàng Xuân L được chứng minh tại các bản tự khai, biên bản hỏi cung của bị can (BL: 20-21;121 -156), Lời khai của những người có liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Về dân sự: ông Hoàng Văn S là bố của bị cáo Hoàng Xuân L tự nguyện nộp số tiền 100.000.000đ để khắc phục hậu quả và không có đề nghị gì đối với số tiền trên.

Cáo trạng số: 06/CT-VKS-P1 ngày 07 tháng 9 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T truy tố bị cáo Hoàng Xuân L về tội “Tham ô tài sản” quy định tại điểm a, Khoản 4, Điều 353 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

sản”.

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân L phạm tội “Tham ô tài * Về Điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 4, khoản 5 Điều 353; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Phạt Hoàng Xuân L 20 năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13/02/2022. Cấm bị cáo đảm nhiệm chức vụ trong thời gian 05 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 584, Điều 585, Điều 589; Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự - Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Hoàng Xuân L phải trả cho Công đoàn cơ sở Công ty TNHH V số tiền 1.543.400.000đ (Một tỷ năm trăm bốn mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng). Xác nhận bị cáo Hoàng Xuân L và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 101.380.000đ (Một trăm linh một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng) tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công án tỉnh T. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 1.442.020.000đ (Một tỷ bốn trăm bốn mươi hai triệu không trăm hai mươi nghìn đồng).

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các quy định của pháp luật để giải quyết.

* Về án phí:

Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Hoàng Xuân L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm và 55.260.000đ (Năm mươi lăm triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng) án phí dân sự trong vụ án hình sự

* Luật sư bào chữa cho bị cáo L có quan điểm:

- Về tội danh: Nhất trí như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T.

- Về điều luật áp dụng và hình phạt: Đề nghị áp dụng cho bị cáo khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

* Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hoàng Xuân L đã khai nhận hành vi của bị cáo như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã xác định:

Hoàng Xuân L, sinh năm 1980 trưởng phòng Glasstic của Công ty TNHH V được chỉ định làm Chủ tịch Công đoàn Công ty. Ngày 27/7/2019, Đại hội Công đoàn Công ty A lần thứ I nhiệm kỳ 2019 – 2024 đã bầu ban chấp hành công đoàn cơ sở gồm 15 ủy viên, trong đó Hoàng Xuân L được bầu làm Chủ tịch Công đoàn cơ sở Công ty TNHH V và đã được Công đoàn các Khu công nghiệp tỉnh T có quyết định công nhận.

- Từ ngày 08/2/2021 đến ngày 13/8/2021, Hoàng Xuân L đã yêu cầu chị Hà Thị H chuyển cho L số tiền: 19.000.000 đồng từ quỹ tiền mặt; L tự mình con trực tiếp rút từ tài khoản tiền gửi của Công đoàn Công ty A được tổng số tiền 1.261.000.000 đồng nhưng chỉ chuyển cho chị H để nộp quỹ tiền mặt số tiền 170.000.000 đồng, L tự ý giữ lại để sử dụng số tiền: 1.091.000.000 đồng. Tổng số tiền quỹ công đoàn của công ty A L đã sử dụng cá nhân trong giai đoạn này là: 1.110.000.000 đồng - Từ ngày 21/8/2021 đến ngày 17/01/2022, Hoàng Xuân L đã yêu cầu chị Hán Thị Hải Y đưa cho L số tiền 50.200.000 đồng từ quỹ tiền mặt; L tự mình trực tiếp rút từ tài khoản tiền gửi của Công đoàn Công ty A được tổng số tiền 735.000.000 đồng nhưng chỉ chuyển cho chị Y để nộp quỹ tiền mặt số tiền: 441.800.000 đồng, L tự ý giữ lại số tiền: 293.200.000 đồng. Tổng số tiền quỹ công đoàn của Công ty A L đã sử dụng cá nhân trong giai đoạn này là:

1343.400.000 đồng Sau khi yêu cầu nhân viên đưa tiền từ quỹ tiền mặt và giữ lại tiền trong quá trình rút tiền từ tài khoản của Công đoàn Công ty A với tổng số tiền là: 1.543.400.000 đồng, Hoàng Xuân L không hoàn trả lại số tiền này cho Công đoàn Công ty A mà chiếm đoạt sử dụng cá nhân hết.

Như vậy, trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 đến tháng 01/2022, lợi dụng chức vụ là Chủ tịch Công đoàn - Chủ tài khoản Công đoàn Công ty TNHH V có địa chỉ tại lỗ CN07A, KCN Phú H, thị xã T, tỉnh T, Hoàng Xuân L đã nhiều lần có hành vi tham ô tài sản của Công đoàn cơ sở Công ty TNHH V do mình là người có trách nhiệm quản lý với tổng số tiền là 1.543.400.000đ.

Kết luận: Hành vi của bị cáo Hoàng Xuân L phạm tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 353 của Bộ luật Hình sự có khung hình phạt là phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình như quyết định truy tố của Viện kiểm sát tỉnh T là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của Hoàng Xuân L là nguy hiểm cho xã hội, đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Hành vi đó ảnh hưởng đến chính sách, chủ trương của nhà nước, của địa phương, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ở Công ty V gây dư luận không tốt trên địa bàn tỉnh T. Vì vậy, phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có một mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trước lần phạm tội này bị cáo Hoàng Xuân L đã bị kết án về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích đồng thời bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, bị cáo phải chịu 02 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên” và “tái phạm” quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hoàng Xuân L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bản thân bị cáo đã tác động gia đình giao nộp số tiền 101.380.000đ để bồi thường, khắc phục hậu quả. Sau khi sự việc bị phát hiện bị cáo đã tự ra đầu thú tại cơ quan điều tra nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tình chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo lấy đó làm bài học cho bản thân và làm gương cho những người khác.

[4] Về hình phạt bổ sung: Cấm bị cáo đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý tài chính trong thời gian 05 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Hoàng Xuân L.

[5] Đối với chị Nguyễn Thùy D, Hà Thị H, Hán Thị Hải Y- Kế toán Công đoàn Công ty TNHH V: Là cấp dưới của Hoàng Xuân L và là kế toán kiêm nhiệm, không được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực tài chính kế toán, chị Hà Thị H, chị Hán Thị Hải Y và chị Nguyễn Thùy D đã tin lời nói của Hoàng Xuân L, nhiều lần giao tiền cho L mà không biết L chiếm đoạt tiền của Công đoàn Công ty để sử dụng cho mục đích cá nhân. Chị H, chị Y và chị D không biết và không được bàn bạc gì, không cùng động cơ mục đích và không được hưởng lợi gì từ hành vi phạm tội của Hoàng Xuân L nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ chứng minh vai trò đồng phạm của 03 cá nhân trên đối với hành vi phạm tội của Hoàng Xuân L là phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Hoàng Xuân L có trách nhiệm trả lại cho Công đoàn cơ sở Công ty TNHH V số tiền là 1.543.400.000đ. Xác nhận bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 101.380.000đ

[7] Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho gia đình bà Trần Lê G 01 hợp đồng tín dụng số 2709LAV202102951 ngày 22/10/2021 giưa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện N và bà Trần Lê G; 01 phụ lục hợp đồng theo dõi dư nợ và thu nợ trong hạn, chuyển nợ quá hạn; 01 bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 758747 mang tên Hoàng Xuân L và Trần Lê G; 01 phiếu cung cấp thông tin giá thị trường số 2110228/2021/PTT-AVV ngày 22/10/2021 của Công ty cổ phần tư vấn và thẩm định giá A. Các tài liệu trên hiện đang lưu trong hồ sơ vụ án.

- Tạm giữ số tiền 101.380. 000 đồng; Trong đó 100.000.000 đồng do ông Hoàng Văn S là bố của bị cáo tự nguyện giao nộp để khắc phục một phần hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra và 1.380.000 đồng thu giữ khi bị cáo ra đầu thú, được nộp vào tài khoản tạm giữ số 3949.0.9044149.00000 của Công an tỉnh T tại kho bạc nhà nước tỉnh T ngày 05/9/2022 để đảm bảo việc thi hành án.

- Xác nhận Cơ quan điều tra - Công an tỉnh T đã trả lại cho gia đình bị cáo Hoàng Xuân L 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Xuân L và 01 điện thoại nhãn hiệu Pixel 4XI thu giữ khi tiếp nhận bị cáo ra đầu thú ngày 13/02/202.

[8] Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T đã đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.

[9] Quan điểm của luật sư bảo chữa cho bị cáo Hoàng Xuân L là chưa phù hợp nên được Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Bị cáo, bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[11] Các quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra; Viện kiểm sát được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều tra viên; Kiểm sát viên thực hiện việc điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đã đảm bảo khách quan đúng quy định của pháp luật.Người bào chữa thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân L phạm tội “Tham ô tài sản”.

[2] Về Điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 353; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Hoàng Xuân L 20 (Hai mươi) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13/02/2022.

Căn cứ khoản 5 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Cấm bị cáo Hoàng Xuân L đảm nhiệm chức vụ liên quan đến quản lý tài chính trong thời gian 03 (Ba) năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hoàng Xuân L.

[3] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 584, Điều 585, Điều 589; Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự

* Về trách nhiệm dân sự:

- Buộc bị cáo Hoàng Xuân L phải trả cho Công đoàn cơ sở Công ty TNHH V số tiền 1.543.400.000đ (Một tỷ năm trăm bốn mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng). Xác nhận bị cáo Hoàng Xuân L và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền 101.380.000đ (Một trăm linh một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng) tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công án tỉnh T. Bị cáo còn phải bồi thường tiếp số tiền 1.442.020.000đ (Một tỷ bốn trăm bốn mươi hai triệu không trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị hại có đơn yêu cầu mà bị cáo vẫn chưa trả được số tiền trên thì còn phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả được. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự.

* Về xử lý vật chứng:

- Tạm giữ của bị cáo số tiền 101.380.000đ (Một trăm linh một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng) được nộp vào tài khoản tạm giữ số 3949.0.9044149.00000 của Công an tỉnh T tại kho bạc nhà nước tỉnh T ngày 05/9/2022 để đảm bảo việc thi hành án.

Cơ quan công an tỉnh T có trách nhiệm chuyển số tiền trên đến Cục thi hành án dân sự tỉnh T.

- Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh T đã trả lại cho gia đình bị cáo Hoàng Xuân L 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Xuân L và 01 điện thoại nhãn hiệu Pixel 4XI thu giữ khi tiếp nhận bị cáo ra đầu thú ngày 13/02/202 theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 26/8/2022 do Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh T lập lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

- Trả lại cho gia đình bà Trần Lê G 01 hợp đồng tín dụng số 2709LAV202102951 ngày 22/10/2021 giưa Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện N và bà Trần Lê G; 01 phụ lục hợp đồng theo dõi dư nợ và thu nợ trong hạn, chuyển nợ quá hạn; 01 bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 758747 mang tên Hoàng Xuân L và Trần Lê G; 01 phiếu cung cấp thông tin giá thị trường số 2110228/2021/PTT-AVV ngày 22/10/2021 của Công ty cổ phần tư vấn và thẩm định giá A. Các tài liệu trên hiện đang lưu trong hồ sơ vụ án.

[4] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Hoàng Xuân L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm và 55.260.000đ (Năm mươi lăm triệu hai trăm sáu mươi nghìn đồng) án phí dân sự trong vụ án hình sự Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 luật thi hành án dân sự thì các đương sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 61/2022/HS-ST

Số hiệu:61/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về