Bản án về tội tham ô tài sản số 391/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 391/2022/HS-PT NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Trong ngày 12/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, số A đường N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 286/2022/HS-PT ngày 13/7/2022 đối với bị cáo Phan Thanh M theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4494/2022/QĐXXPT-HS ngày 22/8/2022, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Phan Thanh M; sinh năm 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 356/52 đường B, khu phố B, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nguyên Phó trưởng Khu phố B, phường B, quận B; Đảng viên, bị đình chỉ sinh hoạt Đảng từ ngày 01/10/2021, theo Quyết định số 32-QĐ/UBKTQU ngày 11/10/2021 của Ủy ban kiểm tra Quận ủy B2 (bl.42); trình độ học vấn: 12/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn B (chết) và bà Đỗ Thị T (sinh năm 1960); hoàn cảnh gia đình: vợ tên Trương Thị H (sinh năm 1984), có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: không;

Bắt, tạm giam: 01/10/2021;

Hủy bỏ biện pháp tạm giam thay bằng cấm đi khỏi nơi cư trú: 28/01/2022;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có liên quan đến kháng cáo:

Bị hại:

1. Ủy ban nhân dân xã B2, quận B;

Người đại diện hợp pháp: Ông Trương Hữu K; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 12/9/2022); có mặt.

2. Ủy ban Mặt trận B2 xã B, quận B;

Người đại diện hợp pháp: Bà Trần Thị Tuyết L; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 29/10/2021); có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phan Thanh M là Phó Trưởng Khu phố B phường B, quận B theo Quyết định công nhận số 596/QĐ-UBND ngày 26/8/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B2.

Ngày 01/4/2020, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid - 19, xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của dịch là bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ đại dịch toàn cầu, địa điểm và quy mô xảy ra dịch trên phạm vi toàn quốc.

Ngày 25/6/2021, Hội đồng nhân dân Thành phố H ban hành Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND về một số chế độ, chính sách đặc thù phục vụ công tác phòng, chống dịch C - 19, hỗ trợ người dân bị tác động bởi dịch Covid - 19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 01/7/2021, Ủy ban nhân dân Thành phố B2 ban hành Công văn số 2209/UBND-KT về việc triển khai chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19 theo Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố H.

Ngày 05/7/2021, Ủy ban nhân dân quận B2 ban hành Công văn số 2388/UBND triển khai chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19 theo Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố.

Ngày 09/7/2021, Ủy ban nhân dân phường B2, quận B ban hành Công văn khẩn số 3385/UBND gửi Trưởng 11 khu phố về triển khai hướng dẫn thành phần hồ sơ đề nghị hưởng chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19 theo Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân Thành phố.

Ngày 15 và 17/7/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B2 B lần lượt ban hành Quyết định số 769/QĐ-UBND và 803/QĐ-UBND về hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid - 19 trên địa bàn phường B B theo Nghị quyết 09/2021/NQ-HĐND.

Ngày 06/8/2021, Ủy ban nhân dân Thành phố B2 ban hành Công văn số 2627/UBND-VX về việc hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ lao động nghèo và lao động tự do gặp khó khăn do tác động của dịch bệnh C - 19 (đợt 2). Trong đó, xác định nguồn kinh phí thực hiện từ Ngân sách Thành phố (1.000.000đ) và nguồn kinh phí vận động xã hội hóa của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố B2 (500.000đ, gồm: 200.000đ và quà tặng trị giá 300.000đ). Tổng số tiền hỗ trợ cho 01 hộ, cá nhân là 1.500.000 đồng.

Ngày 06/8/2021, Ủy ban nhân dân phường B2, quận B ban hành các quyết định để triển khai thực hiện như:

+ Quyết định số 1226/QĐ-UBND về hỗ trợ lao động nghèo bị ảnh hưởng bởi dịch Covid - 19 trên địa bàn phường B (đợt 2) xác định mỗi người lao động tự do bị mất việc làm do ảnh hưởng bởi dịch Covid - 19 được hỗ trợ số tiền 1.500.000đ (Danh sách có anh Hồ Tấn T1 được hưởng 1.500.000đ).

+ Quyết định số 1227/QĐ -UBND về hỗ trợ lao động khó khăn bị ảnh hưởng dịch Covid - 19 trên địa bàn phường B B xác định mỗi hộ được trợ cấp số tiền 1.000.000đ (Danh sách có anh Nguyễn Văn N, anh Phạm Tuấn T2 được hưởng).

Ngày 07/8/2021, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận B2 ban hanh Công văn số 851/MTTQ - BTT về hỗ trợ lao động tự do (đợt 2) và hộ có hoàn cảnh khó khăn bị ảnh hưởng dịch Covid - 19 xác định mỗi hộ được trợ cấp số tiền 200.000đ lấy từ nguồn quỹ phòng, chống dịch Covd - 19 Thành phố chuyển về Ủy ban B2 phường để thực hiện (Danh sách có anh Nguyễn Văn N, anh Phạm Tuấn T2 được hưởng).

Thực hiện các văn bản đã nêu, Ủy ban nhân dân phường B2 B chỉ đạo ông Phan Thanh B1 (Trưởng Khu phố B, xã B B) lên nhận số tiền 132.000.000đ mang về phát cho 88 hộ dân; trong đó có hộ anh Hồ Tấn T1, Nguyễn Văn N và Phạm Tuấn T2. Tuy nhiên, ông B1 nhận thấy người dân phản ứng về phần tiền hỗ trợ lao động tự do đợt 2 cho những người đã nhận tiền hỗ trợ đợt 1, nhiều người được lập danh sách đề xuất nhưng thuộc các nhóm ngành nghề khác lại chưa được chi hỗ trợ nên ông B1 đã báo cáo cho ông Nguyễn Thanh Duy T3 (Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B2) để phân công người khác thực hiện công việc của ông B1. Để hoàn thành nhiệm vụ theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phB2, ông T3 đã chỉ đạo bà Nguyễn Thị Hồng H1 (Kế toán kiêm Thủ quỹ của Ủy ban nhân dân Phường B2) liên hệ với Khu phố để thực hiện nhiệm vụ, giao việc phát tiền chi hỗ trợ cho M (Phó trưởng Khu phố 2) để thực hiện việc cấp phát lại cho người dân. Do đó, M đến Ủy ban nhân dân phường B2 gặp chị H1 nhận 132.000.000đ kèm theo danh sách 88 trường hợp được nhận tiền do Ủy ban phường lập để tiến hành phát tiền. Khi M nhận tiền, chị H1 hướng dẫn chỉ được phát cho những người thuộc diện được hưởng, khi phát phải kiểm tra con người, chứng minh nhân dân cho ký nhận vào cột ký nhận; đối với những người không có mặt tại địa phương hoặc bị trùng tên hoặc bị chết thì phải trả lại tiền để làm thủ tục quyết toán với kế toán của Ủy ban nhân dân phường B2 B theo quy định.

Sau khi nhận tiền về, M đã phát 86 trường hợp, có 01 trường hợp trả lại Ủy ban nhân dân phường do người được hưởng đã chết. Một trường hợp anh Hồ Tấn T1 không có mặt tại nơi đăng ký vào thời điểm phát tiền, M đã giả chữ ký, chữ viết ký nhận tiền và chiếm đoạt số tiền 1.500.000đ tiêu xài cá nhân. Đến ngày 09/8/2021, M thực hiện xong việc Quyết toán với Ủy ban nhân dân B2 phường đối với 87 trường hợp và trả lại tiền 01 trường hợp đã chết.

Đến ngày 10/8/2021, tiếp tục thực hiện đợt phát tiền theo Mục II Công văn số 2627/QĐ-UBND ngày 06/8/2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố B2 (đợt 2), ông Phan Thanh B1 - Trưởng Khu phố 2 vì lý do sức khỏe, đã báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường giao nhiệm vụ chi tiền hỗ trợ cho Phan Thanh M - Phó trưởng Khu phố 2 trực tiếp đến gặp chị H1 nhận 527.000.000đ của 527 trường hợp được nhận hỗ trợ và nhận 105.400.000đ từ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường B2 của 527 trường hợp vừa nêu. Sau đó, thông qua ứng dụng Zalo, M triển khai việc phát tiền hỗ trợ, yêu cầu Tổ trưởng các Tổ dân phố đến Văn phòng khu phố để nhận tiền mang về phát lại cho người dân:

+ Đối với Tổ dân phố 41 do gần nhà của M nên M trực tiếp phát và phát hiện trường hợp anh Phạm Tuấn T2 không có mặt tại nơi đăng ký vào thời điểm phát tiền nên M giả chữ ký, chữ viết ký chiếm đoạt số tiền 1.200.000đ tiêu xài.

+ Đối với trường hợp của anh Nguyễn Văn N: Chị Nguyễn Thị Hồng N1 là Tổ trưởng Tổ dân phố 42 được giao phát tiền tại Tổ dân phố 27. Sau khi phát xong, chị N1 bàn lại cho M danh sách người nhận tiền và 1.200.000đ vì có một trường hợp là anh Nguyễn Văn N không có mặt tại địa phương. M đã chỉnh sửa chữ “Nhị” thành chữ “Nhớ” và giả chữ ký, chữ viết Nguyễn Văn N2 ký nhận số tiền 1.200.000đ tiêu xài.

Đến ngày 14/8/2021, M quyết toán với Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường B2, trả lại 19 trường hợp gồm: 11 trường hợp tại thời điểm phát tiền không có mặt tại địa phương, 08 trường hợp trùng họ tên trong danh sách.

Ngày 21/9/2021, nhận được phản ánh của người dân, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B tiến hành rà soát việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động đang gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19 trên địa bàn quận B. Qua đó, Cơ quan điều tra phát hiện sai phạm của M như đã nêu.

Ngày 27/9/2021, tại Cơ quan điều tra quận B, M đã thừa nhận hành vi phạm tội và tự nguyện giao nộp lại số tiền 3.900.000đ để khắc phục hậu quả. Ngày 01/10/2021, Cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với M.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ tài liệu do Ủy ban Mặt trận B2 và Ủy ban nhân dân phường B2 B giao nộp, gồm: - “Danh sách hỗ trợ hộ có hoàn cảnh do dịch covid-19 trên địa bàn Khu phố B, phường B B” đề tháng 8/2021;

-“DANH SÁCH HỖ TRỢ HỘ CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN DO DỊCH COVID-19 TRÊN ĐỊA BÀN KHU PHỔ 2, PHƯỜNG BÌNH HƯNG HÒA B”;

- “DANH SÁCH NGƯỜI LAO ĐỘNG KHÔNG CÓ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG (LAO ĐỘNG TỰ DO) BỊ MẤT VIỆC LÀM DO ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19, KHU PHỐ 2, PHƯỜNG B HÒA B (LẦN 2)”.

Cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo 01 (một) điện thoại di động Samsung số Imei 3537610807577545 có số thuê bao 0906716795 lưu các thông tin liên quan đến việc triển khai thực hiện gói hỗ trợ Covid-19 tại Khu phố B, phường B (của bị cáo).

Theo Kết luận giám định số 298/KLGĐ-TT ngày 13/01/2022 của Phòng K1 - Công an Thành phố H, xác định được như sau:

1. Chữ ký dạng chữ viết tên “Thinh”, chữ viết họ tên Phạm Tuấn T2 tại mục “Ký nhận - Ghi rõ họ tên” số thứ tự 417 trang 39 trên “DANH SÁCH HỖ TRỢ HỌ CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN DO DỊCH COVID-19 TRÊN ĐỊA BÀN KHU PHỐ 2, PHƯỜNG BÌNH HƯNG HÒA B” đề tháng 8/2021 và ngày 06/8/2021 so với chữ viết của Phạm Tuấn T2 trên 04 (bốn) tài liệu dùng làm mẫu so sánh không phải do cùng một người viết ra.

2. Chữ viết họ tên Nguyễn Văn N2 tại mục “Ký nhận - Ghi rõ họ tên” số thứ tự 366 trang 34 trên “DANH SÁCH HỖ TRỢ HỘ CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN DO DỊCH COVID-19 TRÊN ĐỊA BÀN KHU PHỐ 2, PHƯỜNG BÌNH HƯNG HÒA B” đề tháng 8/2021 và ngày 06/8/2021 so với chữ viết của Nguyễn Văn N trên 02 (hai) tài liệu dùng làm mẫu so sánh không phải do cùng một người viết ra.

3. Chữ ký dạng chữ viết tên “Tây”, chữ viết họ tên Hồ Tấn T1 tại mục “Ký nhận” số thứ tự 38 trang 03 trên “DANH SÁCH NGƯỜI LAO ĐỘNG KHỒNG CÓ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG (LAO ĐỘNG TỰ DO) BỊ MẤT VIỆC LÀM DO ẢNH HƯỜNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19, KHU PHỐ 2, PHƯỜNG B HÒA B (LẦN 2)” đề ngày 06/8/2021 so với chữ viết của Hồ Tấn T1 trên 02 (hai) tài liệu dùng làm mẫu so sánh không phải do cùng một người viết ra.

Tại bản cáo trạng số 70/QĐ-VKS, ngày 18/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân đã truy tố Phan Thanh M về tội “Tham ô tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 353 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Phan Thanh M 03 (ba) năm tù về tội “Tham ô tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án nhưng được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 01/10/2021 đến ngày 28/01/2022.

Ngoài ra, bản án còn tuyên hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo và các đương sự.

Ngày 31/5/2022, bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện khắc phục hậu quả; trong quá trình làm việc bị cáo có nhiều thành tích, được Ủy ban nhân dân phường B2 và Ủy ban nhân dân quận B2 tặng nhiều giấy khen; tính đến thời điểm vi phạm, bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước; hiện tại, hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp nhiều khó khăn, bị cáo phải nuôi mẹ già và 4 con nhỏ, trong đó có 1 con mới 3 tuổi. Do vậy, bị cáo đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Ủy ban nhân dân xã B2 và đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam xã B2 cho biết không có yêu cầu gì và đề nghị đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo như sau: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, có cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tham ô tài sản” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như bị cáo đã trình bày nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo dưới mức thấp nhất trong khung hình phạt. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Bị cáo không tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Căn cứ lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ thu thập được, có căn cứ để xác định rằng:

Bị cáo Phan Thanh M là Phó Trưởng Khu phố B phường B, quận B.

Trong khoảng thời gian từ ngày 06/8/2021 đến ngày 14/8/2021, M được được Ủy ban nhân dân phường B2, quận B giao nhiệm vụ phát tiền hỗ trợ cho những hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn do bị ảnh hưởng dịch bởi dịch bệnh Covid -19.

Trong quá trình phân phát tiền hỗ trợ, phát hiện thấy cá nhân, hộ gia đình anh Nguyễn Văn N, Phạm Tuấn T2 và Hồ Văn T4 có tên trong danh sách được hỗ trợ nhưng thực tế không còn cư trú trên địa bàn phường B B nên không được hưởng. Lể ra, trong trường hợp đã nêu, M phải báo cáo lại với Ủy ban nhân dân phường B2 và trả lại số tiền mà các cá nhân và hộ gia đình đã nêu được hưởng. Tuy nhiên, M đã không thực hiện việc làm vừa nêu. Ngược lại, M đã ký giả chữ ký của anh N, anh T2 và anh T4 vào danh sách nhận tiền hỗ trợ và quyết toán với Ủy ban nhân dân phường B2 B, chiếm đoạt tổng số tiền 3.900.000đ.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của Cơ quan Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến công tác phòng chống dịch bệnh, gây bất bình trong dư luận, làm mất uy tín của chính quyền địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là sai trái nhưng vì động cơ vụ lợi nên vẫn cố ý vi phạm.

[3]. Căn cứ vào các nhận định đã nêu, đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ cơ sở đề kết luận bị cáo đã phạm tội “Tham ô tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như vừa nêu là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Về kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khắc phục hậu quả; trong quá trình làm việc bị cáo có nhiều thành tích trong công tác, được Ủy ban nhân dân phường B2 và Ủy ban nhân dân quận B2 tặng nhiều giấy khen; tính đến thời điểm vi phạm, bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước; hiện tại, hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp nhiều khó khăn, bị cáo phải nuôi mẹ già và 4 con nhỏ, trong đó có 01 con 3 tuổi. Do vậy, Tòa án án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất trong khung là có căn cứ, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, số tiền mà bị cáo chiếm đoạt là không lớn, bị cáo đã tự nguyện giao nộp lại tài sản vào thời điểm trước khi bị khởi tố và tích cực hợp tác với cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, cần áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa, đại diện bị hại cũng đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cũng cần xem đây là tình tiết giảm nhẹ mới.

Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nêu, hậu quả về mặt vật chất đã được khắc phục. Tuy nhiên, hậu quả phi vật chất là không thể khắc phục, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm. Việc cho bị cáo được hưởng án treo sẽ không đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho những hành vi tương tự.

Vì các lý do đã nêu, chỉ có thể xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo; không chấp nhận việc bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo.

[5]. Trong vụ án này, tiền mà bị cáo chiếm đoạt có nguồn từ Ngân sách của Ủy ban nhân dân Thành phố B2 và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố B2 nhưng đã được giao cho Ủy ban nhân dân xã B2 B và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã B2 để phân phát cho lại cho người được hưởng, Ủy ban nhân dân xã B2 và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã B2 B là những người trực tiếp quản lý tiền để phân phát lại cho người được hưởng và phải chịu trách nhiệm nếu để thất thoát. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến uy tín và tài sản do Ủy ban nhân dân xã B2 B và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xà B2 đang trực tiếp quản lý. Do vậy, Ủy ban nhân dân xã B2 và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã B2 B là bị hại trong vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Ủy ban nhân dân xã B2 B và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã B2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng. Sai sót này đã xâm hại đến quyền khi tham gia tố tụng của Ủy ban nhân dân xã B2 và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã B2. Tuy nhiên, tại phiên tòa, sau khi đã được giải thích, đại diện bị hại cho biết không có ý kiến khiếu nại gì. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét hủy án sơ thẩm. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

[6]. Do sửa án sơ thẩm nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

1. Sửa bản án sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 353; điểm b, s và t khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phan Thanh M 02 (hai) năm tù về tội “Tham ô tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án nhưng được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 01/10/2021 đến ngày 28/01/2022.

2. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 391/2022/HS-PT

Số hiệu:391/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về