Bản án về tội tham ô tài sản số 34/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng H, sinh năm 1992;

HKTT: Thôn D, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố: Không có và mẹ Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; Vợ: Doãn Thị H, sinh năm 1980, con: Có 02 con, lớn sinh năm 2016 nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biên pháp “Cấm đi khỏi nơi cứ trú” hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm;

Địa chỉ trụ sở: Toà nhà VTV, số 8 H, Phường M, Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng Q, chức vụ: TGĐ. Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Ngô Quang L, chức vụ: Chuyên viên. Địa chỉ: Nơ 1B, KĐT L, phường H, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội (Xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trọng H, sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú (HKTT) tại thôn D, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ký hợp đồng dịch vụ số: MB.626840-1/2022/HĐDV ngày 16/2/2022 với Công ty Cổ phần Giao hàng tiết kiệm với nội dung cam kết: H có trách nhiệm giao, nhận hàng hóa theo chỉ dẫn của người quản lý Công ty hoặc theo chỉ định, theo phương tiện liên lạc được chỉ định, hướng dẫn của Công ty; Thu hộ tiền từ khách hàng và nộp lại đầy đủ tiền thu hộ cho Công ty (nếu có); Cập nhật và bàn giao kết quả thực hiện dịch vụ theo đúng yêu cầu cho Công ty. H được phân công làm nhân viên giao hàng trên tuyến Đại Vi tại kho Bưu cục Đại Thượng, địa chỉ tại thôn Đại Thượng, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Khi vào làm việc, H được Công ty cấp tài khoản tên “hieunt447” có bảo mật mật khẩu để thao tác trên app hệ thống của Công ty, tài khoản này có liên kết với số điện thoại 0398.084.X của H. Theo đó: Vào 07 giờ 30 phút và 13 giờ 30 phút hàng ngày, H đến kho Bưu cục Đại Thượng cùng Điều phối viên kiểm hàng, Điều phối viên gửi thông tin đơn hàng gồm tên khách hàng, mã số đơn hàng, giá tiền thu hộ, địa chỉ và số điện thoại khách nhận vào ứng dụng, H nhận được thông tin và bấm xác nhận. Sau đó, H cùng với Điều phối viên tự nhặt các đơn hàng thực tế có ở kho Bưu cục cho vào giỏ hàng rồi liên hệ với khách hàng qua ứng dụng để xác định có giao hàng được hay không.

- Trường hợp giao được thì H mang đến địa chỉ ghi trên đơn hàng giao hàng cho khách, thu tiền theo giá ghi trên đơn hàng và bấm xác nhận tình trạng giao hàng thành công trên ứng dụng.

- Trường hợp không giao hàng được do không liên hệ được với khách hàng hoặc khách hàng hẹn lại thời gian nhận hàng thì H bấm tình trạng “hẹn lại” (delay) vào ứng dụng.

- Trường hợp khách từ chối nhận hàng thì H bấm trạng thái hủy, không thu tiền.

- Trường hợp khách hàng đã xem nhưng không nhận hàng, có trả tiền phí vận chuyển ship và khách nhận một phần sản phẩm, trả tiền một phần còn bưu phẩm quay trả lại thì H bấm trạng thái giao hàng một phần.

Cuối mỗi ca (ca sáng kết thúc lúc 12 giờ 30 phút, ca chiều kết thúc lúc 17 giờ 30 phút), H phải mang tiền hàng đã thu của khách hàng và số hàng không giao được cho khách hàng về bàn giao trả lại kho Bưu cục Đại Thượng; nhân viên kho hàng dùng máy quét lại hàng để kiểm tra, đối chiếu với số hàng H báo không giao được để nhận lại hàng và tiền. Quá trình thu tiền, khách hàng có thể trả tiền mặt hoặc chuyển khoản vào số tài khoản 03401010777495 của H tại ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam để nhận tiền thu hộ của khách.

Để có tiền chi tiêu cá nhân, H đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền đã thu được ngày 28/5/2022 của khách hàng. Cụ thể: Khoảng 16 giờ 00 phút, H đến kho Bưu cục Đại Thượng làm việc được điều phối viên Ngô Văn Tr, sinh năm 1995, HKTT tại thôn Chi Hồ, xã Tân Chi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh giao mang 38 bưu phẩm đi trả khách hàng. Qua kiểm tra thấy thông tin và số lượng bưu phẩm thực tế đúng so với trên App, H xác nhận rồi liên hệ với khách hàng để đi giao hàng. Do số lượng bưu phẩm nhiều nên H đã lấy một số bưu phẩm đi trả trước, số còn lại vẫn để ở giỏ hàng trong kho của bưu cục. Sau khi xem thông tin trên App, thấy có 02 bưu phẩm ở địa bàn thôn D không thuận tuyến đường, H liên lạc với khách hàng và nhờ anh Nguyễn Sỹ T, sinh năm 1992, HKTT tại thôn D, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh là nhân viên COD giao tuyến thôn D giao hàng hộ, còn tiền hàng khách chuyển khoản vào tài khoản của H. Trong quá trình H đi giao hàng, anh Tr tiếp tục đẩy 01 đơn hàng trên App đồng thời nhặt hàng trên thực tế vào giỏ hàng của H. Đến khoảng 17 giờ 10 phút cùng ngày, H quay lại kho bưu cục để lấy bưu phẩm đi giao tiếp, thấy anh Tr không có ở kho, H nhặt thêm 01 bưu phẩm tại kho rồi đề nghị anh Tr xác nhận giao trên App và anh Tr đồng ý. Cùng lúc này, do cần tiền chi tiêu cá nhân nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền thu hộ của Công ty. Sau đó, H nhờ ông Đỗ Đăng Ti, sinh năm 1961, HKTT tại thôn Đại Vi, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh là nhân viên bảo vệ kho bưu cục trả hộ 01 bưu phẩm do khách đến tận kho lấy còn tiền hàng khách thanh toán qua tài khoản của H. Sau đó, H tiếp tục đi giao hàng, trong buổi chiều ngày 28/5/2022 H giao thành công được 27 bưu phẩm (Trong đó có 24 bưu phẩm có thu tiền với tổng số tiền là 29.196.100đ, 03 bưu phẩm không thu tiền); còn 13 bưu phẩm trong đó 12 bưu phẩm chưa liên lạc được với khách, 01 bưu phẩm khách không nhận hàng. H đã cập nhật trên App trạng thái giao hàng của 40 đơn hàng trên đồng thời mang về bàn giao cho kho bưu cục 13 đơn hàng tồn. Chiều tối ngày 28/5/2022, H liên lạc với vợ là chị Doãn Thị H, sinh năm 1980, HKTT tại thôn Duệ Khánh, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, chuyển vào tài khoản của chị H 02 lần với tổng số tiền 10.000.000đ để đổi tiền mặt. Sau đó, H gặp anh Phan Chí C, sinh năm 1995, HKTT tại phường Đồng Nguyên, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh là nhân viên giao hàng hãng Shopee, chuyển 2.500.000đ vào tài khoản của anh C để rút tiền mặt. Sau đó, H trả cho anh Nguyễn Mậu Thắng, sinh năm 1992, HKTT tại thôn D, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh số tiền 3.000.000đ đã vay trước đó. Ngày 29/5/2022, H chuyển khoản cho chị H 1.000.000đ rồi lấy số tiền 11.000.000đ. Toàn bộ số tiền có được, H sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Đến sáng ngày 29/5/2022, do anh Tr bận việc gia đình nên có anh Trần Ti Đạt, sinh năm 1999, HKTT tại thôn Lũng Giang, thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đến làm hộ. Anh Đạt đăng nhập vào tài khoản của anh Tr để thực hiện việc đối soát và nhận tiền thu hộ, giao bưu phẩm cho các Nhân viên giao hàng. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, không thấy Nguyễn Trọng H đến chốt ca, giỏ hàng vẫn còn ở kho nên đã báo cho anh Tr. Anh Tr nhiều lần liên hệ, yêu cầu H lên kho làm việc, trả tiền cho Công ty nhưng H không thực hiện. Ngày 30/5/2022, chị Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1996, HKTT tại thôn Trung Chính, xã Trung Chính, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh là quản lý của khu vực huyện Tiên Du, Yên Phong và Từ Sơn xuống nhà để làm việc nhưng H không có nhà, gia đình không làm việc. Ngày 01/6/2022, Công ty giao hàng tiết kiệm nộp đơn trình báo nội dung sự việc.

* Về vật chứng, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Ngày 29/8/2022 và ngày 13/10/2022, H tự nguyện giao nộp tổng số tiền 29.196.000đ để khắc phục hậu quả. Ngày 25/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du đã quyết định trả lại số tiền trên cho Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm (đại diện là anh Ngô Quang L). Sau khi nhận lại tiền, Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm không có yêu cầu gì khác về dân sự.

- Ngày 23/6/2022, H tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 10, màu xám, gắn thẻ sim là điện thoại H sử dụng để liên lạc với khách hàng, chuyển khoản.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du, Nguyễn Trọng H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 147/CT-VKSTD ngày 17/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, truy tố bị cáo H về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Tham ô tài sản”.

Căn cứ khoản 1, Điều 353; điểm b, s, khoản 1; khoản 2, Điều 51; Điều 65 BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Trọng H từ 28 tháng tù đến 32 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 56 tháng đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động XIAOMI REDMI Note 10, màu xám, màn hình cảm ứng bên trong có gắn thẻ sim card.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết. Trong phần tranh luận:

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt;

Bị cáo nhận thấy bị Toà án nhân dân huyện Tiên Du xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất, xin hưởng án treo để được cải tạo tại địa phương nuôi mẹ tâm thần và con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đại diện bị hại đã được tống đạt hợp lệ, xin vắng mặt tại phiên toà, đã có lời khai tại Cơ quan điều tra việc vắng mặt không ảnh hưởng tới việc xét xử vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với với thời gian, địa điểm, lời khai bị hại, người liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Nguyễn Trọng H là nhân viên giao hàng của Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm theo Hợp đồng dịch vụ MB.626840-1/2022/HĐDV ngày 16/2/2022. Theo Hợp đồng đã ký kết H có trách nhiệm nhận hàng từ Bưu cục thôn Đại Thượng giao cho khách, thu, quản lý tiền của khách và giao nộp trả về Bưu cục. Vào hồi 16 giờ ngày 28/5/2022, tại Bưu cục thôn Đại Thượng ở thôn Đại Thượng, xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, H đã nhận 40 mã hàng từ Bưu cục Đại Thượng đi giao cho khách hàng. H đã giao được cho khách 27 đơn hàng thu về số tiền 29.196.100đ nhưng thực tế H chỉ thu 29.196.000 đồng (Trong đó: 24 đơn hàng giao hàng thành công có thu tiền hàng và phí vận chuyển, 03 đơn hàng 0 đồng). Đối với 13 đơn H bàn giao lại Công ty (Trong đó, 01 đơn khách không nhận hàng, 12 đơn H chưa liên hệ với khách hàng). Trong quá trình giao hàng, H nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên nên chỉ bàn giao hàng chưa giao được, không bàn giao số tiền đã thu của khách hàng cho Công ty. Tổng số tiền H chiếm đoạt của Công ty là 29.196.100 đồng.

Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng H đã phạm tội ''Tham ô tài sản'' theo khoản 1, điều 353 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường, đúng đắn của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại về tài sản, uy tín, do bị cáo là người được giao nhiệm vụ, quản lý hợp pháp tài sản của doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần phải đưa bị cáo ra xét xử kịp thời và có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung, biết tôn trọng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài bị cáo chiếm đoạt đã được khắc phục, bồi thường đầy đủ cho bị hại, đến nay bị hại không có ý kiến yêu cầu gì về TNDS và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Mặt khác bị cáo xuất thân trong gia đình hoàn cảnh đặc biệt là không có cha; mẹ bị bệnh tâm thần, khuyết tật, gia đình thuộc hộ cận nghèo, bị cáo là lao động chính nuôi sống gia đình; bị cáo đã ly hôn vợ, đến nay đã lập gia đình cùng vợ mới phải nuôi tổng số 3 con nhỏ nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s, khoản 1; khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự.

Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du là phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy:

Đối với bị cáo H là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, mà chỉ cần xử bị cáo một mức hình phạt tù tương xứng với hành vi nhưng cho bị cáo cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đủ để giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích lấy tiền ăn tiêu, lẽ ra ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung một khoản tiền đối với bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; tuy nhiên bị cáo hiện không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng gì, gia đình thuộc hộ cận nghèo, phải nuôi mẹ già bị bệnh và 3 con nhỏ vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận bồi thường đầy đủ, không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Bị cáo tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 10, màu xám, gắn thẻ sim là điện thoại H sử dụng để liên lạc với khách hàng, chuyển khoản. Chiếc điện thoại bị cáo sử dụng là công cụ phương tiện phục vụ mục đích phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Liên quan trong vụ án này:

Đối với chị Doãn Thị H và anh Phan Chí C: Sau khi chiếm đoạt được số tiền đã thu hộ cho Công ty, H đã chuyển khoản vào số tài khoản của chị H 11.000.000 đồng, tài khoản của anh C số tiền 2.500.000 đồng để đổi tiền mặt. Chị H và anh C không biết nguồn gốc số tiền trên là do H phạm tội mà có, không được hưởng lợi gì. Do vậy, không xử lý đối với chị H và anh C là đúng quy định pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Mậu Thắng: H trả anh Thắng 3.000.000 đồng H đã vay trước đó, anh Thắng không biết về nguồn gốc số tiền trên do vậy không xem xét xử lý đối với anh Thắng là đúng quy định pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Sỹ T, ông Đỗ Đăng Ti, anh Ngô Văn Tr không biết hành vi phạm tội của H. Khi giao hàng cho khách hộ H, anh T và ông Ti không thu tiền hộ, không được hưởng lợi gì từ hành vi phạm tội của H. Sau khi phát hiện ra hành vi phạm tội của H, anh Tr đã báo cáo Công ty và yêu cầu H về bàn giao tiền hàng theo quy định. Do vậy, không xem xét xử lý hành vi của anh T, ông Ti, anh Tr là đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội "Tham ô tài sản".

Căn cứ khoản 1, Điều 353; điểm b, s, khoản 1; khoản 2, Điều 51; Điều 65 BLHS. Các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Trọng H 28 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 56 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Trọng H, cho UBND xã Đ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. 17/11/2022).

*Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 34/2022/HS-ST

Số hiệu:34/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về