Bản án về tội tham ô tài sản số 340/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 340/2021/HSPT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 23-9-2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 388/2021/TLPT-HS ngày 09-7-2021 đối với bị cáo Phan Đại H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Bị cáo kháng cáo:

Phan Đại H, sinh năm 1981 tại tỉnh Quảng Nam; địa chỉ cư trú: Thôn H1, xã Đ, huyện Đl, tỉnh Quảng Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh; con ông Phan Đình c, sinh năm 1954 và bà Vương Thị Kim L, sinh năm 1955; vợ là Lương Thị C1, sinh năm 1984 và có 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 03-8-2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam thuộc Công an tỉnh Quảng Nam, có mặt.

Người tham gia tố tụng cổ liên quan đến kháng cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Vũ Minh Th - Văn phòng Luật sư V, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam, có mặt.

- Nguyên đơn dân sự: Công ty TNHH Một thành viên Quốc tế S; địa chỉ: Xã T1, huyện Nl, tỉnh Quảng Nam.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Hoàng H1 - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn Q - Chức vụ: Giám đốc điều hành công ty; nơi ĐKHKTT: Khu 1, xã L, huyện H2, Phú Thọ; địa chỉ tạm trú: Lô A7 đường H3, phường T2, thành phố T3, tỉnh Quảng Nam, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Vụ án có 40 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng không liên quan đến kháng cáo, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập tham gia phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty TNHH Một thành viên Quốc tế S (sau đây viết tắt là Công ty S) được thành lập ngày 31-10-2012; hoạt động chính của công ty gồm: Sản xuất bồn chứa nước bằng inox, bồn nhựa, bộ năng lượng mặt trời, máy lọc nước, chậu rửa chén... và kinh doanh hàng của Công ty Sản xuất cho các đại lý, cửa hàng, nhà phân phối trên toàn quốc (các tỉnh từ Quảng Bình đến Phú Yên và các tỉnh Tây nguyên).

Tháng 6-2018, Phan Đại H được hợp đồng vào làm việc tại Công ty S. Tháng 6-2019, Phan Đại H được Công ty S bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng Chi nhánh tại Huyện T4 (Quyết định số 63/QĐ-SHCL/2019 ngày 14-6-2019). Theo quy chế hoạt động Khối kinh doanh của Công ty S thì Trưởng Chi nhánh có trách nhiệm: Quản lý nhân viên, tài sản của chi nhánh, hoạt động kinh doanh mua bán và quản lý công nợ, chịu trách nhiệm bán hàng và thu tiền nộp về công ty. Đối với Phan Đại H, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ của Trưởng Chi nhánh tại Huyện T4, H còn điều hành, quản lý, bán hàng cho các đại lý và cửa hàng tại các khu vực Huyện T4, huyện P1, huyện T5, huyện H2 và một số vùng ven T3. Ngoài ra, theo quy chế của công ty, hàng ngày Trưởng Chi nhánh có trách nhiệm thu tiền các cửa hàng và nộp vào tài khoản của công ty. Khi thu tiền có biên lai, có xác nhận của người nộp tiền, người nhận tiền; chịu trách nhiệm quản lý, đôn đốc nhân viên kinh doanh, thu hồi đầy đủ biên bản xác nhận công nợ, gửi đầy đủ biên bản xác nhận công nợ tháng trước về Phòng Kế toán công ty vào ngày 15 hàng tháng; chịu trách nhiệm quản lý, tiền thu trong ngày phải kịp thời gửi về công ty, đảm bảo tồn quỹ tại thời điểm 17 giờ hàng ngày dưới 1.000.000 đồng, tiền thu thứ bảy, chủ nhật phải nộp ngay vào 09 giờ sáng thứ hai đầu tuần.

Trong thời gian giữ chức vụ Trưởng Chi nhánh tại Huyện T4, Phan Đại H thực thiện không đúng trách nhiệm theo quy chế của công ty, cụ thể: Khi các đại lý có nhu cầu mua hàng thông báo cho H về đơn hàng, chủng loại hàng, H sẽ báo về công ty để xuất hàng cho đại lý nhận, đại lý xác nhận hàng xong thì công ty, chi nhánh theo dõi công nợ với đại lý. Việc thu tiền thì tùy theo mức độ giao dịch của từng đại lý, H sẽ có thỏa thuận về việc thu tiền, hàng. Các đại lý thường xuyên có đơn hàng, thì H sẽ để nợ gối đầu (giao đơn hàng này, thu nợ đơn hàng khác), còn các đại lý không thường xuyên có đơn hàng hoặc khách hàng vãng lai, thì H thu tiền ngay hoặc sau một tuần mới thu tiền.

Tuy nhiên, từ tháng 01-2019 đến tháng 7-2019, lợi dụng chức vụ được giao, khi thu tiền của các đại lý, H không nộp lại cho công ty theo quy định, mà tự lập các biên bản đối chiếu xác nhận công nợ giả để chiếm đoạt tiền mà các đại lý đã trả cho công ty và sử dụng tiêu xài cá nhân, dẫn đến trên sổ sách công ty thể hiện đại lý còn nợ tiền công ty. Qua đối chiếu thực tế thì có 40 đại lý không còn nợ của công ty hoặc nợ ít hơn sổ theo dõi của công ty. Ngoài ra, Phan Đại H còn có hành vi thu tiền hàng của 03 đại lý (TT, HĐ và NH) nhưng không nộp cho công ty, mà để sử dụng tiêu xài cá nhân. Để tránh bị công ty phát hiện, hàng tháng H tự lập biên bản đối chiếu xác nhận công nợ với khách hàng cho phù hợp với công nợ của khách hàng mà công ty đang theo dõi và ký giả chữ ký của khách hàng, nên trong thời gian dài công ty không phát hiện việc chiếm đoạt tiền của H. Sau khi sự việc bị công ty phát hiện, H tự ý bỏ việc và bỏ đi khỏi địa phương.

Kết quả điều tra xác định: Từ tháng 01/2019 đến tháng 7/2019, Phan Đại H đã chiếm đoạt của Công ty S tổng số tiền 541.975.009 đồng, số tiền chiếm đoạt của Công ty S, H sử dụng để tiêu xài cá nhân và đánh bạc bằng hình thức chơi lô đề. Quá trình điều tra, gia đình Phan Đại H tự nguyện nộp 2.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2001/HS-ST ngày 04-6-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam:

Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 6 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Phan Đại H 12 (mười hai) năm tù về tội ‘Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-8-2020.

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc Phan Đại H có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tài sản cho Công ty TNHH Một thành viên Quốc tế s số tiền là 541.975.009 đồng (được khấu trừ 2.000.000 đồng mà gia đình bị cáo nộp tại Cục thi hành án Dân sự tỉnh Quảng Nam). Bị cáo còn phải tiếp tục bồi thường 539.975.009 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hình sự, dân sự và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 07-6-2021, Phan Đại H kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[ 1 ]. Ngày 07-6-2021, Phan Đại H kháng cáo; đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phần tranh luận, Luật sư bào chữa cho Phan Đại H thống nhất với tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, nhưng cho rằng: Theo sổ Bảo hiểm xã hội đang quản lý thì Phan Đại H được bổ nhiệm Trưởng chi nhánh Huyện T4 từ tháng 01-2019 đến tháng 4-2019, còn trước và sau thời gian đó bị cáo là nhân viên kinh doanh, cấu thành cơ bản của tội “Tham ô tài sản” là người có chức vụ, nên cần phải chứng minh lại số tiền bị cáo chiếm đoạt. Ngoài ra, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối cải; đã tác động gia đình khắc phục số tiền 2.000.000 đồng; quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới là tự nguyện nộp thêm 10.000.000 đồng để khắc phục hậu quả (có biên lai kèm theo) và chứng minh bản thân bị cáo có tham gia quân đội, được Trung đoàn trưởng Trung đoàn 224, Sư đoàn 378 Chứng nhận danh hiệu Chiến sĩ giỏi; bị cáo có nhân thân tốt; hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị bệnh, bị cáo là lao động chính trong gia đình, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Phan Đại H không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

[2], Xét kháng cáo của bị cáo.

[2.1]. Về tội danh:

Trong thời gian từ tháng 01-2019 đến tháng 7-2019, Phan Đại H được Công ty TNHH MTV Quốc tế S hợp đồng với các chức trách là Nhân viên kinh doanh, Phụ trách chi nhánh và sau đó được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Chi nhánh Huyện T4 thuộc Công ty S, nhưng bị cáo thực thiện không đúng quy chế của công ty đối với nhiệm vụ, quyền hạn được giao, thu tiền kinh doanh của 40 đại lý, cửa hàng bán sản phẩm của công ty, nhưng không nộp về công ty theo quy định, mà lập hồ sơ giả, hợp thức chứng từ để chiếm đoạt của công ty, với tổng số tiền là 541.975.009 đồng để sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hành vi của Phan Đại H là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý giá trị 541.975.009 đồng. Theo quy định tại khoản 6 Điều 353 của Bộ luật Hình sự, thì hành vi của Phan Đại H đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản”. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam kết án bị cáo về tội “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 353 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2.2], Về hình phạt:

Phan Đại H là người có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì mục đích vụ lợi cá nhân, bị cáo đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, lập hồ sơ giả, hợp thức các chứng từ để chiếm đoạt tiền của công ty nơi mình làm việc. Hành vi phạm tội của bị cáo không những gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của Công ty S, mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực nhiều mặt đến đời sống xã hội, nên cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường 2.000.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả; bị cáo có nhân thân tốt; hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị bệnh và bị cáo là lao động chính trong gia đình; do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xử phạt bị cáo mức án 12 năm tù (dưới mức khởi điểm của khung hình phạt) là thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp biên lai thu 10.000.000 đồng (do gia đình bị cáo nộp) để khắc phục hậu quả và tài liệu chứng minh bị cáo có thời gian tham gia quân đội, được tặng Chứng nhận danh hiệu chiến sĩ giỏi, nhưng với hành vi phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như đã nêu trên, cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Có như vậy, mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, nhưng không có cơ sở để kết luận.

[3] , Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4] , Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Đại H.

- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2021/HS-ST ngày 04-6-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

2. Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 6 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Phan Đại H 12 (mười hai) năm tù về tội ‘Tham ô tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03-8-2020.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Phan Đại H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1998
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 340/2021/HSPT

Số hiệu:340/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về