Bản án về tội tham ô tài sản số 230/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 230/2020/HS-PT NGÀY 18/05/2020 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 696/2019/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo Lê Thị Thúy V; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 349/2019/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị Thúy V, sinh năm 1975 tại tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: 12/27 đường 6, khu phố 2, phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: B917 chung cư A, B, phường A, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Nguyên nữ hộ sinh Trung tâm y tế quận Th; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con Lê Tấn S (sinh năm 1929) và bà Lã Thị Q (sinh năm 1947); Có chồng là Nguyễn Văn D (đã ly hôn); Có 02 con (nhỏ sinh năm 2009, lớn sinh năm 2000); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại. (vắng mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu: Luật sư Nguyễn Đình Nh – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Bá T – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) (Trong vụ án còn có bị hại và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 2/2015, Lê Thị Thúy V được tuyển làm nhân viên hợp đồng có thời hạn tại Trạm y tế L thuộc Trung tâm y tế quận Th. Ngày 04/7/2017, V được chính thức vào biên chế. Quá trình công tác tại Trạm y tế L, V được phân công phụ trách chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản, chăm sóc sức khỏe cộng đồng tại khu phố 2, phường L, kiêm kế toán của Trạm, đồng thời phụ trách thu tiền tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ để giao cho Trung tâm y tế quận Th.

Từ ngày 24/6/2017 đến 17/10/2017, Lê Thị Thúy V đã thu 925.770.000 đồng từ việc tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ của Trạm, nhưng V chỉ nộp 35.520.000 đồng về Trung tâm y tế quận Th, chiếm đoạt 890.250.000 đồng sử dụng vào mục đích cá nhân, cụ thể:

Trung tâm y tế quận Th ký hợp đồng với những công ty cung cấp vắc-xin, được công ty cung cấp thuốc vắc-xin, Trung tâm sẽ phân phối thuốc vắc-xin về các Trạm y tế đã đăng ký tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ (trong đó có Trạm y tế L). Sau khi tiêm hết số lượng thuốc vắc-xin thì Trạm y tế sẽ thu tiền của khách hàng nộp về Trung tâm y tế quận Th để hoàn trả số tiền thuốc vắc-xin cho nhà cung cấp. Số tiền chênh lệch thu được Trung tâm y tế quận Th trích cho các Trạm y tế 50%.

Tại Trạm y tế L, từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần, khi người dân có yêu cầu tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ, các nhân viên trực trong ngày của Trạm sẽ thu tiền của người dân đăng ký tiêm, đến hết giờ làm việc trong ngày các nhân viên sẽ tập hợp toàn bộ số tiền thu được giao cho Lê Thị Thúy V, riêng ngày thứ bảy thì việc thu tiền tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ được giao cho Phan Thị Th - Thủ quỹ. Lê Thị Thúy V sẽ tập hợp số liều vắc-xin đăng ký và nhận vắc-xin tại khoa Dược của Trung tâm y tế quận Th. Việc thực hiện tiêm vắc-xin dịch vụ cho người dân đã đăng ký vào thứ bảy. Sau đó, đến thứ hai hoặc thứ ba của tuần kế tiếp, toàn bộ số tiền thu được trong tuần sẽ được giao lại cho Lê Thị Thúy V để V lập các thủ tục như Bảng kê nộp tiền vắc - xin, Đề xuất chi tiền cho công tác tiêm ngừa vắc-xin, Danh sách nhận tiền tiêm ngừa vắc - xin (Do Trung tâm y tế trích cho Trạm 50% từ tiền lãi), rồi trình bà Tuyến cùng những người có tên tham gia tiêm ngừa vắc-xin trong Trạm y tế L ký tên và giao toàn bộ số tiền thu được cho Phòng Tài vụ của Trung tâm y tế quận Th. Sau khi nhận đầy đủ tiền thu từ tiêm ngừa vắc-xin, Phòng Tài vụ sẽ trích lại 50% tiền lãi thu được (sau khi đã khấu trừ tiền đóng các thủ tục thuế theo quy định) cho Trạm y tế L, để phát lại cho các nhân viên tham gia thực hiện tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ.

Từ tháng 06/2017 đến 17/10/2017, Trạm y tế L đã nhận từ khoa Dược của Trung tâm y tế Quận Th tổng cộng 16 loại vắc-xin các loại, với 2337 liều, thu của khách hàng tiêm vắc xin dịch vụ tại trạm với tổng số tiền là 925.770.000 đồng, cụ thể:

Lê Thị Thúy V thu tháng 6/2017 là 17.630.000 đồng, tháng 7/2017 là 72.660.000 đồng, tháng 8/2017 là 40.580.000 đồng, tháng 9/2017 là 58.930.000 đồng, tháng 10/2017 là 55.760.000 đồng. Tổng số 393 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền là 245.560.000 đồng.

Phan Thị Th thu tháng 6/2017 là 34.820.000 đồng, tháng 7/2017 là 181.060.000 đồng, tháng 8/2017 là 132.850.000 đồng, tháng 9/2017 là 135.590.000 đồng, tháng 10/2017 là 30.580.000 đồng. Tổng số 1.736 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 514.900.000 đồng.

Trương Thị T thu tháng 6/2017 là 5.100.000 đồng, tháng 7/2017 là 8.630.000 đồng, tháng 8/2017 là 1.620.000 đồng, tháng 9/2017 là 22.280.000 đồng, tháng 10/2017 là 10.860.000 đồng. Tổng số của 61 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 48.490.000 đồng.

Đỗ Thị Kim D thu tháng 6/2017 là 2.310.000 đồng, tháng 7/2017 là 8.420.000 đồng, tháng 8/2017 là 15.030.000 đồng, tháng 9/2017 là 26.580.000 đồng, tháng 10/2017 là 9.240.000 đồng. Tổng số 78 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 61.580.000 đồng.

Nguyễn Thị Nam Ch thu tháng 6/2017 là 1.620.000 đồng, tháng 7/2017 là 16.490.000 đồng, tháng 8/2017 là 11.420.000 đồng, tháng 9/2017 là 9.190.000 đồng, tháng 10/2017 là 8.340.000 đồng. Tổng số của 58 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 47.060.000 đồng.

Trịnh Văn Th thu tháng 7/2017 là 2.470.000 đồng, tháng 9/2017 là 1.540.000 đồng. Tổng số 5 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 4.010.000 đồng.

Nguyễn Thanh Trường Th thu tháng 8/2017 là 850.000 đồng, tháng 9/2017 là 770.000 đồng. Tổng số của 02 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 1.620.000 đồng.

Trương Thị T thu tháng 6/2017 là 850.000 đồng, tháng 10/2017 là 1.700.000 đồng. Tổng số 03 phiếu xuất kho, thu tổng số tiền 2.550.000 đồng.

Trong đó, Lê Thị Thúy V đã nộp về Trung tâm y tế quận Th số tiền 35.520.000 đồng, còn lại 13 loại vắc-xin đã thu của khách hàng tại Trạm y tế L với tổng số tiền 890.250.000 đồng, Lê Thị Thúy V đã chiếm đoạt chưa nộp về Trung tâm y tế quận Th.

Quá trình chiếm đoạt tiền tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ, để không bị phát hiện, Lê Thị Thúy V tự ý trích số tiền 45.000.000 đồng tiền tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ để chi cho những nhân viên tham gia tiêm ngừa vắc-xin dịch vụ của trạm.

Đối với số tiền chiếm đoạt của Trung tâm y tế quận Th, Lê Thị Thúy V khai: Vào khoảng tháng 5/2016, Lê Thị Thúy V đi du lịch ở P, V quen một người đàn ông tên Lewis D tự xưng là nhân viên an ninh Liên hiệp quốc tại Malaysia. Từ đó, V nảy sinh tình cảm nên thường xuyên nhắn tin, nói chuyện với tên D thông qua email DLewis731@gmail.com và số điện thoại +60164320514 (mã vùng Malaysia). Sau nhiều lần hứa hẹn sẽ về Việt Nam định cư và tổ chức đám cưới với V, tên D viện nhiều lý do gặp khó khăn trong quá trình xuất cảnh tại Malaysia để yêu cầu V chuyển tiền giúp đỡ. Nghe theo lời tên D, từ ngày 03/5/2017 đến ngày 02/10/2017, Lê Thị Thúy V đã 13 lần chuyển tổng số tiền 882.000.000 đồng vào các tài khoản của các đối tượng như Võ Kim L, Nguyễn Thị Ch, Nguyễn Ngọc Thiên Tr, Ngô Quý D, Trần Thị V, Lê Thị Tuyết H, Trần Văn Đ, Lâm Thị Tuyết H, Nguyễn Trí Ph, Mai Thị H, Phan Lũy K, Lê Thị Thu D, Phan Văn Bé T đứng tên, mở tại nhiều Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh do tên Lewis D cung cấp. Số tiền này đã bị các đối tượng dùng Internet Bankinh chuyển đến các tài khoản khác rút hết bằng thẻ ATM tại các trụ ATM trong nước và Malaysia (trong đó có số tiền V chiếm đoạt được từ việc thu tiền tiêm ngừa vắc- xin dịch vụ của Trạm y tế L). Qua đó, V có đơn tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của tên D Lewis.

Tại cơ quan điều tra Trần Thị V, Trần Văn Đ, Lâm Thị Tuyết H, Phan Lũy K, Phan Văn Bé T, Nguyễn Trí Ph, Võ Kim L, Nguyễn Thị Ch và Lê Thị Tuyết H khai không biết Lê Thị Thúy V, không biết việc Lê Thị Thúy V chiếm đoạt tiền của Trạm y tế L sau đó chuyển tiền vào các tài khoản của họ, vì các đối tượng này cho người quen (không rõ lai lịch) mượn thẻ ATM để sử dụng, hoặc họ bị mất chứng minh nhân dân sau đó bị người khác sử dụng chứng minh nhân dân đi mở tài khoản ngân hàng.

Lê Thị Thúy V và gia đình đã khắc phục hậu quả 845.250.000 đồng, các nhân viên Trạm y tế L nộp lại số tiền V tự ý trích chia là 45.000.000 đồng (V tự ý trích chia) cho Trung tâm y tế quận Th.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 349/2019/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 353 điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thúy V 07 (bảy) năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 23/9/2019, bị cáo Lê Thị Thúy V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị Thúy V vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do bị tai biến lại, phải nhập viên để theo dõi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập hợp lệ bị cáo đến phiên tòa phúc thẩm lần thứ ba nhưng bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo. Về nội dung, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Thị Thúy V về tội “Tham ô tài sản” và xử phạt bị cáo 07 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, không nặng. Xét bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Luật sư đồng ý với tội danh mà bản án sơ thẩm đã quy kết đối với bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và khắc phục toàn bộ hậu quả xảy ra, hiện hoàn cảnh bị cáo khó khăn, đã ly hôn chồng và phải chăm sóc 02 con để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Vụ án đã được đưa ra xét xử phúc thẩm vào các ngày 14/01/2020, 19/2/2020 và 18/5/2020, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo Luật sư Nguyễn Đình Nh đều được Tòa án triệu tập hợp lệ. Tại phiên tòa ngày 14/01/2020 bị cáo có mặt, Luật sư N có đơn xin hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa ngày 19/2/2020 bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa, Luật sư N vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Lê Thị Thúy V vắng mặt, có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do bị tai biến lại, phải nhập viên để theo dõi; Luật sư N vắng mặt không có lý do. Xét thấy, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cơ quan y tế buộc bị cáo điều trị nội trú, cũng như xác nhận việc không đủ sức khỏe để đi lại. Vì vậy, lý do bị cáo nêu ra là không chính đáng. Hơn nữa, trong vụ án bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt, Tòa án cấp phúc thẩm đã chỉ định Luật sư bào chữa cho bị cáo; việc xét xử không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị cáo Lê Thị Thúy V.

[2] Về nội dung, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định:

Lê Thị Thúy V là nữ hộ sinh thuộc biên chế của Trung tâm y tế quận Th, được giao nhiệm vụ phụ trách chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản kiêm kế toán, đồng thời phụ trách thu tiền tiêm ngừa vắc xin tại Trạm y tế L. Theo quy định, Trung tâm y tế quận Th cấp phát vác xin cho Trạm y tế L để phục vụ dịch vụ tiêm phòng; khi người dân đến tiêm vác xin thì Trạm y tế tiến hành thu tiền và nộp về cho Trung tâm y tế quận Th. Tuy nhiên, lợi dụng sơ hở trong khâu quản lý, từ ngày 24/6/2017 đến ngày 17/10/2017, V đã thu số tiền 925.770.000 đồng từ việc tiêm ngừa vác xin dịch vụ của Trạm y tế nhưng chỉ nộp về Trung tâm y tế quận Th 35.520.000 đồng; còn lại 890.250.000 đồng sử dụng vào mục đích cá nhân.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015 và xét xử bị cáo Lê Thị Thúy V phạm tội “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản và hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, số tiền bị cáo chiếm đoạt 890.250.000 đồng là tương đối lớn. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Bị cáo phạm tội theo điểm a khoản 3 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và khắc phục toàn bộ hậu quả đã gây ra; từ đó xử phạt bị cáo 07 năm tù là đã có chiếu cố đối với bị cáo.

Trong quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo không xuất trình tài liệu, chứng cứ nào đặc biệt mới để xin giảm nhẹ hình phạt; đồng thời mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên là nhẹ nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Thị Thúy V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355, 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thúy V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 349/2019/HS-ST ngày 18 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên bố bị cáo Lê Thị Thúy V phạm tội “Tham ô tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 353 điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thúy V 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Lê Thị Thúy V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 230/2020/HS-PT

Số hiệu:230/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về