Bản án về tội tham ô tài sản số 19/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 4 năm 2023, đối với bị cáo:

Trần Duy Q, sinh năm 1989. Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện P, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1969 và bà Thái Thị Đ, sinh năm 1966; Anh, em ruột có hai người, bị cáo là người thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/6/2022 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Nguyên đơn dân sự: Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời Đại diện theo ủy quyền: Anh Mai Hùng C, sinh năm 1994. Nơi cư trú: số 72, N, phường A, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Lê Ánh T1, sinh năm 1980. Nơi cư trú: ấp B1, xã P, huyện P, tỉnh An Giang (có mặt).

Người làm chứng:

1/ Anh Khưu Thái H, sinh năm 1991. Nơi cư trú: khóm T, thị trấn Ó, huyện T, tỉnh An Giang (có mặt).

2/ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1975. Nơi cư trú: ấp 5, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

3/ Bà Nguyễn Thị Ngọc N1, sinh năm 1976. Nơi cư trú: ấp 5, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

4/ Ông Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1955. Nơi cư trú: ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

5/ Bà Phạm Thị C1, sinh năm 1971. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

6/ Anh Phạm Tấn K, sinh năm 1982. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

7/ Ông Lý Hải H2, sinh năm 1957. Nơi cư trú: ấp T C, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

8/ Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1955. Nơi cư trú: ấp T C, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

9/ Ông Phan Tấn H3, sinh năm 1972. Nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

10/ Ông Nguyễn Văn O, sinh năm 1956. Nơi cư trú: ấp T 1, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời có 24,153 vốn Nhà nước, Cơ quan đại diện chủ sở h u cổ đông vốn Nhà nước là y ban nhân dân tỉnh An Giang. Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời thành lập chi nhánh là Công ty trách nhiệm h u hạn dịch vụ nông nghiệp Lộc Trời, trụ sở tại ấp Sơn Lập, xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, được Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động Chi nhánh mã số 1602115183, đăng ký lần đầu ngày 02/01/2020 và đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 19/8/2021. Ngày 26/01/2020 gi a Công ty trách nhiệm h u hạn dịch vụ nông nghiệp Lộc Trời với Trần Duy Q ký kết Hợp đồng lao động số 72/2020/HĐLĐ. Theo đó, Q được giao nhiệm vụ phân phối vật tư, hỗ trợ sản xuất, trực tiếp quản lý công nợ nông dân, thu hồi công nợ tại địa bàn huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Lợi dụng nhiệm vụ được giao, từ tháng 5/2021 đến tháng 7/2021, Q thu tiền công nợ của 12 hộ nông dân thuộc 02 hợp tác xã Toàn Phát và An Xuân tại huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ nhưng không nộp đầy đủ về Công ty, cụ thể:

- Ngày 14/6/2021, Q thu của Nguyễn Văn T1 1.242.000 đồng và Nguyễn Văn Chân 432.000 đồng, là tiền Công ty phun thuốc trừ sâu cho 02 hộ nông dân trên, số tiền này Q không nộp cho Công ty.

- Ngày 22/6/2021, Q thu của Phạm Thị C1 số tiền 7.420.000 đồng và Phạm Tấn K số tiền 2.808.000 đồng, là tiền Công ty phun thuốc trừ sâu cho 02 hộ nông dân trên, số tiền này Q không nộp cho Công ty.

- Ngày 25/6/2021, Q thu của Nguyễn Thị Ngọc N1 số tiền 60.457.795 đồng, đây là tiền Công ty phun thuốc trừ sâu và bán vật tư nông nghiệp. Q nộp cho Công ty 22.500.000 đồng, chiếm đoạt 37.957.795 đồng.

- Ngày 29/6/2021, Q thu của Nguyễn Thanh H1 số tiền 79.396.300 đồng tiền Công ty phun thuốc trừ sâu và bán vật tư nông nghiệp, Q nộp cho Công ty 61.200.000 đồng, chiếm đoạt 18.196.300 đồng.

- Ngày 01/7/2021, thu của Lý Hải H2 số tiền 15.660.000 đồng tiền bán vật tư nông nghiệp, số tiền này Q không nộp về Công ty.

- Khoảng tháng 7/2021, Q thu của Nguyễn Văn X số tiền 12.180.000 đồng; Phan Tấn H3, số tiền 100.547.330 đồng; Trần Thanh Tùng số tiền 102.567.425 đồng và Danh Thái số tiền 20.000.000 đồng. Đây là tiền bán vật tư nông nghiệp và phun thuốc trừ sâu; Q không nộp cho công ty.

- Khoảng tháng 7/2021, Q thu của Nguyễn Văn O số tiền 81.204.525 đồng, nộp cho Công ty 81.000.000 đồng, chiếm đoạt 204.525 đồng.

Tổng cộng Trần Duy Q đã thu số tiền của 12 hộ nông dân trên là 483.915.375 đồng, nộp lại cho công ty 164.700.000 đồng, chiếm đoạt số tiền 319.215.375 đồng. Đến ngày 03/11/2021, Q và Công ty trách nhiệm h u hạn dịch vụ nông nghiệp Lộc Trời đối chiếu công nợ và thừa nhận chiếm đoạt số tiền trên tiêu xài cá nhân.

Ngày 16/6/2022, Q bị khởi tố để điều tra.

Tại Cáo trạng số 14/CT-VKSTS-HS, ngày 18/01/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đã truy tố bị cáo Trần Duy Q về tội “Tham ô tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với các vật chứng thu gi và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời khai của nguyên đơn dân sự do Mai Hùng C là người đại diện theo ủy quyền trình bày như nội dung vụ án đã nêu. Q đã khắc phục số tiền 319.215.375 đồng cho Công ty, xin giảm nhẹ hình phạt cho Q.

Người làm chứng anh Khưu Thái H cho biết, Hân là tổ trưởng được phân công phụ trách địa bàn huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ. Q được giao phụ trách các xã Thới Xuân, Thới Đông và thị trấn Cờ Đỏ thuộc huyện Cờ Đỏ. Không biết việc Q lợi dụng nhiệm vụ được giao chiếm đoạt tiền công nợ của Công ty.

Lời khai của nh ng người làm chứng Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn Chân, Nguyễn Thị Ngọc N1, Nguyễn Thanh H1, Phạm Thị C1, Phạm Tấn K, Lý Hải H2, Nguyễn Văn X, Phan Tấn H3, Nguyễn Văn O, Trần Thanh Tùng, Danh Thái trình bày: Các anh, chị là tổ viên của hợp tác xã An Xuân và Toàn Phát. Vụ Đông Xuân năm 2021 có mua vật tư nông nghiệp và thuê phun thuốc trừ sâu của Công ty trách nhiệm h u hạn dịch vụ nông nghiệp Lộc Trời thông qua Trần Duy Q và đã trả tiền đầy đủ cho Q như nội dung vụ án đã nêu.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Lê Ánh T1 trình bày: Tuyết thay Q khắc phục số tiền 319.215.375 đồng cho Công ty trách nhiệm h u hạn dịch vụ nông nghiệp Lộc Trời, không yêu cầu Q trả lại.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn phát biểu luận tội đối với bị cáo và gi nguyên truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 353; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Duy Q mức án từ 06 năm đến 07 năm tù về tội Tham ô tài sản.

Về trách nhiệm dân sự: Do nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì nên không đề cập xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: [1] Về tố tụng:

Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, nguyên đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này còn có người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy sau khi vụ án xảy ra, nh ng người làm chứng đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát bổ sung một phần quyết định truy tố; truy tố bị cáo thêm điểm c khoản 2 Điều 353 vì ngoài tình tiết phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự, bị cáo còn phạm tội nhiều lần.

Hội đồng xét xử xét thấy việc bổ sung quyết định truy tố đối với bị cáo vẫn trong Điều khoản của tội danh Viện Kiểm sát truy tố, nên Hội đồng xét xử chấp nhận bổ sung một phần quyết định truy tố của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai nguyên đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nh ng người làm chứng, các biên bản hoạt động tố tụng; ngoài ra còn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đầy đủ căn cứ xác định: Từ tháng 5/2021 đến tháng 7/2021, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời giao quản lý công nợ của nông dân tại địa bàn huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt với tổng số tiền 319.215.375 đồng.

Căn cứ vào quy định của pháp luật, hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tham ô tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đã truy tố bị cáo về tội danh, Điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét thấy, bị cáo Trần Duy Q là người đã trưởng thành, có sức khỏe nhưng không chịu lo lao động để nuôi sống bản thân, giúp ích cho gia đình, vì tham lam tư lợi, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động vất vã; bị cáo lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý nhưng không nộp lại đầy đủ cho Công ty, lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo biết chiếm đoạt tài sản người khác là phạm tội nhưng vẫn cố ý thực hiện, điều này thể hiện bị cáo là người xem thường pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chẳng nh ng xâm phạm đến quyền sở h u hợp pháp về tài sản của chủ sở h u được pháp luật bảo vệ, mà còn làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, doanh nghiệp, làm mất uy tín, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không

[5] Về tình tiết giảm nhẹ:

Bị cáo xuất thân thành phần lao động nghèo, hoàn cảnh gia đình khó khăn; sau khi vụ án xảy ra bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường cho nguyên đơn dân sự hết số tiền bị cáo chiếm đoạt và nguyên đơn dân sự tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự. Đây là nh ng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự.

[6] Các biện pháp tư pháp khác:

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả xong, nguyên đơn dân sự không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không yêu cầu gì đối với bị cáo, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có việc làm ổn định, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Bị cáo Trần Duy Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trần Duy Q phạm tội “Tham ô tài sản”;

Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 353, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Duy Q 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 6 năm 2022.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của y ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo Trần Duy Q chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo, nguyên đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 19/2023/HS-ST

Số hiệu:19/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về