Bản án về tội tham ô tài sản số 151/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 151/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 153/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn D; tên gọi khác: Không; sinh ngày 30/12/1990; tại xã Ẳ, huyện T, tỉnh Điện Biên; là đảng viên Đ; giới tính: Nam; nơi cư trú: Bản p, xã Ả, huyện M, tỉnh Điện Biên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công chức văn phòng; trình độ học vấn: Lớp 12/12; con ông Lò Văn Y, sinh năm 1969; con bà Cà Thị T, sinh năm 1972; bị cáo có vợ là Lù Thị T1, sinh năm 1992 và có 02 người con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo chưa từng bị kết án và bị xử lý hành chính; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/6/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay và bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lò Văn P; tên gọi khác: Không; sinh ngày 15/7/1988; tại xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; là đảng viên Đ; giới tính: Nam; nơi cư trú: Bản L, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công chức văn hóa xã; trình độ học vấn: Lớp 12/12; con ông Lò Văn L, sinh năm 1957 (Đã chết); con bà Điều Thị N, sinh năm 1960 (Đã chết); bị cáo có vợ là Quàng Thị N1, sinh năm 1995 và có 01 người con sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo chưa từng bị kết án và bị xử lý hành chính; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/6/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay và bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân xã P; đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân xã P có ông Lò Văn T2; sinh năm: 1974; trú tại: Bản H, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; đại diện theo ủy quyền của ông T2 có ông Thào A T3; sinh năm 1981; chức vụ: Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã P; trú tại: Bản H, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên (Giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Các hộ dân thuộc các bản: T, T, P, P, H, H, H, H, H, H Mức 3.

Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân thuộc các bản có:

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Thẩm Táng có: Anh Giàng A M; sinh năm: 2001; trú tại: Bản T, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Thẩm Mú có: Anh Vừ A; sinh năm: 2001; trú tại: Bản T, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Hua Mức 1 có: Anh Vàng A C; sinh năm 1985; trú tại: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Hua Mức 2 có: Anh Ly A C1 ; sinh năm 1991 ; trú tại: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Hua Mức 3 có: Anh Lý Văn X; sinh năm 1963; trú tại: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Hua Mùn có: Anh Thào A N2; sinh năm 1990; trú tại: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Pú Xi 1 có: Anh Giàng A D1; sinh năm 1985; trú tại: Bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); có mặt.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Pú Xi 2 có: Anh Giàng A L1; sinh năm 1990; trú tại: Bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Hát Láu có: Anh Vừ A; sinh năm 1989; trú tại: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); vắng mặt có lý do.

- Đại diện theo ủy quyền của các hộ dân bản Hát Khoang có: Anh Thào A X1; sinh năm 1998; trú tại: Bản H, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên (Theo giấy ủy quyền ngày 19/9/2023); có mặt.

Những người có nghĩa vụ liên quan:

- Anh Quàng Văn Â; sinh năm: 1976; trú tại: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Kế toán của UBND xã P; có mặt.

- Chị Lù Thị T1; sinh năm 1989; trú tại: Bản P, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên; vắng mặt không có lý do.

- Chị Lò Thị T4; sinh năm 1989; trú tại: Bản L, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; vắng mặt có lý do.

- Anh Quàng Văn T5; sinh năm 1989; trú tại: Bản L, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; vắng mặt có lý do.

Người bào chữa cho bị cáo D: Bà Cao Thị B; Trợ giúp viên pháp lý của Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo P: Bà Lê Thị Thúy A; Trợ giúp viên pháp lý của Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2014 Lò Văn D được tuyển dụng làm công chức Văn phòng - Thống kê tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, đến ngày 15/4/2022 kiêm nhiệm chức danh thủ quỹ quản lý thu, chi hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội trên địa bàn xã, Lò Văn P được tuyển dụng làm công chức Văn hóa - Xã hội xã Pú Xi từ năm 2018 được giao nhiệm vụ phụ trách công tác Lao động - Thương binh và xã hội phối hợp với thủ quỹ Ủy ban nhân dân xã P là Lò Văn D thực hiện chi trả tiền mặt cho các hộ được hỗ trợ tiền điện. Cụ thể: Căn cứ Quyết định số 2194/QĐ-UBND ngày 31/12/2022 của Ủy ban nhân dân huyện T về việc phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ hộ nghèo, hộ chính sách xã hội tiền điện quý IV năm 2022 của Ủy ban nhân dân huyện T, Ủy ban nhân dân xã P ban hành Quyết định số 205/QĐ-UBND ngày 31/12/2022 về việc danh sách và kinh phí hỗ trợ hộ nghèo, hộ chính sách xã hội tiền điện quý IV năm 2022 của xã P, huyện T với tổng số tiền 88.385.000 đồng (bao gồm 523 hộ nghèo kinh phí hỗ trợ 86.295.000 đồng, 12 hộ không thuộc diện hộ nghèo và sống ở vùng chưa có điện lưới kinh phí hỗ trợ 1.980.000 đồng, 02 hộ có lượng điện tiêu thụ không quá 50kwh kinh phí hỗ trợ 110.000 đồng). Sau khi kế toán Ủy ban nhân dân xã P lập hồ sơ dự toán, giấy rút dự toán ngân sách Nhà nước và chuyền hồ sơ cho Kho bạc Tuần Giáo phê duyệt. Theo yêu cầu của kế toán, ngày 16/01/2023 bị cáo Lò Văn D là thủ quỹ ra Agribank huyện T rút số tiền 88.385.000 đồng. Sau khi rút tiền về, bị cáo D đã báo với kế toán và kế toán yêu cầu chuyển tiền cho bị cáo P để chi trả như các quý trước. Ngày 17/01/2023, mặc dù được nhận nhiệm vụ giao số tiền đó cho bị cáo P đề chi trả cho người dân; nhưng bị cáo D đã không chuyển toàn bộ số tiền cho bị cáo P mà bị cáo D đã tự ý lấy số tiền 57.000.000 đồng tiền hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo, hộ chính sách xã hội để chi tiêu cá nhân. Cho đến ngày 19/01/2023, bị cáo D mới tạm giao số tiền còn lại 31.385.000 đồng cho bị cáo Lò Văn p để giữ lại chờ bị cáo D đưa số tiền còn lại 57.000.000 đồng thì chi trả cho người dân (giữa D và p có sổ tạm giao số tiền). Khi nhận tiền D đưa, P đem về nhà cất giữ để đợi D đưa số tiền còn lại. Đến đầu tháng 02/2023, Lò Văn P yêu cầu D đưa số tiền còn lại 57.000.000 đồng để Phường chi trả cho các hộ dân được hỗ trợ, nhưng D nói đã tiêu xài hết, việc D tự ý lấy số tiền 57.000.000 đồng chi tiêu cá nhân D không bàn bạc gì với P chỉ thông báo cho P. Đến đầu tháng 3 năm 2023, do đang cần tiền để trả nợ, Lò Văn P đã lợi dụng chức trách, nhiệm vụ đã chiếm đoạt số tiền 31.385.000 đồng D tạm giao để chi tiêu cá nhân. Việc D, P tự ý lấy tiền hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội của các hộ dân trên địa bàn xã P để chi tiêu cá nhân không có sự bàn bạc, trao đổi, thống nhất gì với nhau và không báo cáo lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã P, huyện T. Ngày 17/5/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra, công an huyện T nhận được đơn đề nghị của tập thể nhân dân xã P về việc chưa nhận được số tiền hỗ trợ tiền điện của các hộ nghèo, hộ chính sách xã hội trên địa bàn quý IV năm 2022. Sau khi nhận được đơn đề nghị, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã tiến hành điều tra, xác minh, Lò Văn D, Lò Văn P đã thừa nhận chiếm đoạt số tiền trên và sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã Quyết định trưng cầu giám định số: 204/TCGĐ-ĐCSHSKTMT ngày 11/7/2023 về việc giám định chữ ký của Lò Văn D, Lò Văn P nội dung giao tiền điện quý IV/2022 trong sổ tay của Lò Văn D. Tại Kết luận giám định số: 1150/KL-KTHS ngày 13/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh Đ đã kết luận: Chữ ký đứng tên Lò Văn P dưới mục “Người nhận” trên tài liệu cần giám định, ký hiệu A với chữ ký đứng tên Lò Văn P trên “BẢN TỰ KHAI/BẢN TƯỜNG TRÌNH”, đề ngày 09/6/2023, ký hiệu M1 là do cùng một người ký ra. Chữ ký đứng tên Lò Văn D dưới mục “Người giao” trên tài liệu cần giám định, ký hiệu A với chữ ký đứng tên Lò Văn D trên “BẢN TỰ KHAI/BẢN TƯỜNG TRÌNH”, để ngày 09/6/2023, ký hiệu M2 là do cùng một người ký ra.

Tại Cáo trạng số: 141/CT-VKS-TG ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; đã truy tố các bị cáo về hành vi Tham ô tài sản. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Phạm tội “Tham ô tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 353; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 3 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo D từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo P từ 09 tháng đến 01 năm tù. không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về bồi thường dân sự, do các bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong, nên không đề nghị HĐXX xem xét. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và các bị cáo có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Ý kiến của đại diện UBND xã P: Theo Quyết định phê duyệt của UBND huyện về hỗ trợ tiền điện cho các hộ dân được hưởng chính sách, UBND xã đã làm các thủ tục để rút toàn bộ số tiền là 88.385.000đ về và chỉ đạo chi trả cho các hộ dân như những quý trước. Tuy nhiên sau khi rút tiền hỗ trợ quý IV về thì D và P đã không chi trả mà đã sử dụng số tiền đó vào mục đích cá nhân. Sau khi bị phát hiện hành vi phạm tội thì trong thời gian qua, các bị cáo đã nhanh chóng nộp lại số tiền cho UBND xã; không yêu cầu bồi thường gì thêm. Hành vi của các bị cáo đã gây ra đã làm ảnh hưởng đến uy tín của xã. Tuy nhiên đối với các bị cáo thì thấy trong thời gian công tác không vi phạm pháp luật; là đảng viên gương mẫu, bản thân các bị cáo luôn cố gắng trong công việc, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và được Đảng ủy, Ủy ban nhân dân huyện K1. Cũng chỉ vì gia đình gặp phải những khó khăn như bị cáo D đã sử dụng số tiền để chữa bệnh cho bà; còn bị cáo P thì thực sự hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, bố mẹ của bị cáo P đã chết hết nên P phải nuôi một người chú bị bệnh tâm thần và người em khuyết tật phải dựa vào trợ cấp xã hội. Thời gian qua cũng là khoảng thời gian giúp cho các bị cáo nhận ra được những sai phạm của mình, với bản tính lương thiện tôi tin các bị cáo sau này sẽ có lối sống tốt, chấp hành pháp luật nghiêm túc. Do đó đề nghị HĐXX xem xét để cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước.

Ý kiến đại diện theo ủy quyền của các hộ dân thuộc 10 bản (T, T, P, P, H, H, H, H, H, Hua M): Đến nay hành vi của các bị cáo đã được các cơ quan pháp luật xử lý, các hộ dân cũng không có ý kiến gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo D: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; đại diện của các hộ dân xin giảm nhẹ tội cho bị cáo; trong quá trình công tác nhiều năm đều có thành tích xuất sắc, bị cáo Phạm tội lần đầu, là người có nhân thân tốt, luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật chỉ vì quá khó khăn nên mới thiếu suy nghĩ dẫn đến có hành vi phạm tội; đồng thời xem xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo vợ bị bệnh tim và các con còn nhỏ, chỉ vì cần tiền để chữa bệnh cho bà nên bị cáo đã thiếu suy nghĩ mà thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy đề nghị HĐXX áp dụng điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 3 Điều 54 BLHS cho bị cáo tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất khung hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị; đề nghị không phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo. Đề nghị của những người bào chữa cho bị cáo P: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; bị hại xin giảm nhẹ tội cho bị cáo; trong quá trình công tác nhiều năm đều có thành tích xuất sắc, bị cáo Phạm tội lần đầu, là người có nhân thân tốt, luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật chỉ vì hoàn cảnh quá khó khăn như bản thân phải bị cáo bố mẹ đẻ chết nên để lại người chú bị bị bệnh tâm thần và người em khuyết tật phải dựa vào trợ cấp xã hội cho Phường có trách nhiệm chăm sóc; vì cần trang trải khó khăn nên mới thiếu suy nghĩ dẫn đến có hành vi phạm tội; đồng thời xem xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo; cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước; đề nghị HĐXX áp dụng điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 3 Điều 54 BLHS cho bị cáo tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất khung hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị; đề nghị không phạt bổ sung và miễn án phí cho bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận phạm tội “Tham ô tài sản”; việc phạm tội không có sự bàn bạc, thống nhất và không ai chỉ đạo các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xem xét miễn hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình tranh tụng công khai tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi của mình phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; do đó có đủ cơ sở kết luận:

Đối với hành vi phạm tội của bị cáo D: Lò Văn D với nhiệm vụ được phân công là thủ quỹ của Ủy ban nhân dân xã P, sau khi kế toán là anh Quàng Văn  đã lập xong chứng từ rút tiền hỗ trợ tiền điện quý IV năm 2022 và yêu cầu bị cáo D đi rút tiền tại Agribank huyện T. Ngày 16/01/2023, thực hiện nhiệm vụ của mình bị cáo D đã ra Agribank huyện T rút tổng số tiền là 88.385.000đ (T6 mươi tám triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng) để về chi trả cho các hộ dân được hưởng theo quy định. Sau khi rút được tiền về bị cáo không báo cáo với lãnh đạo mà bị cáo đã lợi dụng quyền hạn của mình chiếm đoạt số tiền 57.000.000d sử dụng vào mục đích cá nhân. Đến ngày 19/01/2023 bị cáo D chuyển số tiền còn lại là 31.385.000đ cho bị cáo Lò Văn P để giữ trước, số tiền 57.000.000đ D sẽ đưa cho Phường sau để chi trả cho các hộ dân.

Đối với hành vi phạm tội của bị cáo P: Lò Văn P với nhiệm vụ được phân công là người sẽ trực tiếp chuyển số tiền cho các trưởng bản để chi trả khoản tiền hỗ trợ tiền điện cho các hộ dân; sau khi nhận tiền từ D, bị cáo đã lợi dụng quyền hạn của mình chiếm đoạt số tiền 31.385.000đ sử dụng vào mục đích cá nhân; việc sử dụng số tiền này không có sự bàn bạc với D.

Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của các bị cáo Lò Văn D, Lò Văn P đã phạm vào tội "Tham ô tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ 02 năm đến 07 năm...” Vì vậy hành vi phạm tội của các bị cáo, bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét vai trò, động cơ, mục đích thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo, thấy rằng: Trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội độc lập, không có sự trao đổi hay cấu kết với nhau để cùng thực hiện tội phạm, nên đây không phải là vụ án đồng phạm. Khi thực hiện nhiệm vụ, các bị cáo đã có hành vi vi phạm pháp luật với mức độ, tính chất và lỗi khác nhau. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhận thức được việc lợi dụng chức trách, quyền hạn được giao là thủ quỹ xã và được giao nhiệm vụ chuyển tiền hỗ trợ cho các trưởng bản phát tiền hỗ trợ cho các hộ dân đề chiếm đoạt tiền của UBND xã được giao là sai, chỉ vì muốn có tiền chi tiêu cho mục đích cá nhân nên dẫn đến việc phạm tội.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm hoạt động quản lý tài chính của Nhà nước; gây ảnh hưởng đến quyền lợi của những người được thụ hưởng và các chính sách của Nhà nước. Do vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm đảm bảo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: [3.1] Đối với bị cáo Lò Văn D: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bản thân bị cáo đã nhanh chóng bồi thường thiệt hại, khắc phục toàn bộ hậu quả do mình gây ra, đại diện Ủy ban nhân dân xã và các hộ dân xin giảm nhẹ cho bị cáo, quá trình công tác bị cáo đã đạt thành tích xuất sắc và được các cấp khen thưởng; do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử thấy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đồng thời trong thời gian tạm giam vừa qua bị cáo cũng đã nhận thức sâu sắc về hành vi của mình nên tại phiên tòa cũng có lời xin lỗi đến UBND xã và các hộ dân; để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước, HĐXX áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 54 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy cứu.

[3.1] Đối với bị cáo Lò Văn P: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, bản thân bị cáo đã nhanh chóng bồi thường thiệt hại, khắc phục toàn bộ hậu quả do mình gây ra, đại diện Ủy ban nhân dân xã và các hộ dân xin giảm nhẹ cho bị cáo, quá trình công tác bị cáo đã đạt thành tích xuất sắc và được các cấp khen thưởng; do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử thấy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đồng thời trong thời gian tạm giam vừa qua bị cáo cũng đã nhận thức sâu sắc về hành vi của mình nên tại phiên tòa cũng có lời xin lỗi đến UBND xã và các hộ dân; để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước, HĐXX áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 54 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy cứu.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, các bị cáo Lò Văn D, Lò Văn P đã khắc phục hậu quả và nộp trả toàn bộ số tiền chiếm đoạt, cụ thể: Bị cáo Lò Văn D đã giao nộp số tiền là 57.000.000 đồng, bị cáo Lò Văn P đã giao nộp số tiền là 31.385.000 đồng (số tiền này cơ quan Thi hành án dân sự đang quản lý). Do đó, HĐXX thấy cần ghi nhận sự tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả của các bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn theo kết quả xác minh của Cơ quan điều tra, nên cần miễn hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Xét đề nghị về tội danh và mức hình phạt của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo; Hội đồng xét xử xét thấy là đúng hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xét đề nghị của những người bào chữa: Xét thấy đề nghị của những người bào chữa cho các bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về vật chứng: Trả lại số tiền 88.385.000 đồng là tiền các bị cáo khắc phục hậu quả cho UBND xã P, số tiền hiện nay đang được tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước huyện T, do đó khi bản án có hiệu lực pháp luật thì nguyên đơn dân sự sẽ đến kho bạc đề rút số tiền thực hiện việc chi trả cho người dân.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và các bị cáo có đơn xin miễn án phí vì vậy HĐXX chấp nhận miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[10] Các nhận định khác:

Đối với ông Lò Văn T2 là Chủ tịch UBND xã P: Quá trình điều tra đã làm rõ; sau khi nhận tiền hỗ trợ về, kế toán đã báo lại với chủ tịch UBND xã P và được chủ tịch chỉ đạo cấp dưới thực hiện theo đúng quy định; vì vậy không vi phạm pháp luật. Với trách nhiệm là người đứng đầu khi để cấp dưới vi phạm thì ông đã bị cấp trên xử lý theo quy định.

Đối với ông Quàng Văn  là kế toán ngân sách của UBND xà P: Quá trình điều tra đã làm rõ, kế toán đã thực hiện đúng chức trách nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật về ngân sách. Đã thực hiện đúng quy định về việc rút tiền và nhập quỹ cơ quan. Kế toán cũng đã yêu cầu thủ quỹ thực hiện việc chi trả theo đúng quy định, việc các bị cáo tự ý sử dụng số tiền hỗ trợ kế toán không biết và cũng không hưởng lợi từ việc chiếm đoạt của các bị cáo; vì vậy ông Quàng Văn  không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự:

1. Tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn D, Lò Văn P phạm tội “Tham ô tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 353, điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; khoản 1, 3 Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn D 01 (Một) năm tù; thời gian chấp hành hành hình phạt tù tính từ ngay 08/6/2023.

Áp dụng khoản 1 Điều 353, điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; khoản 1, 3 Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lò Văn P 09 (chín) tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/6/2023.

3. Về bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự: Ghi nhận các bị cáo Lò Văn D, Lò Văn P đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho UBND xã P, huyện T cụ thể: Bị cáo Lò Văn D đã bồi thường xong cho UBND xã P số tiền 57.000.000 đồng. Bị cáo Lò Văn P đã bồi thường xong cho UBND xã P số tiền 31.385.000 đồng.

4. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T 88.385.000 đồng (T6 mươi tám triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn đồng).

(S tiền trên cơ quan Thi hành án dân sự huyện T đang quản lý theo y nhiệm chi giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tun Giáo).

5. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điềm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn D và bị cáo Lò Văn P được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án, Nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Thời hạn kháng cáo đối với người có mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 151/2023/HS-ST

Số hiệu:151/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về