Bản án về tội tham ô tài sản số 129/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 129/2024/HS-PT NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xét xử trực tuyến - trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và điểm cầu thành phần: Phòng xét xử trực tuyến - trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 647/2023/TLPT-HS ngày 22 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Bùi Văn Đ, Nguyễn Đức Th. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.

1. Các bị cáo có kháng cáo:

1.1. Họ tên: Bùi Văn Đ, sinh năm 1993; Giới tính: Nam; Nơi thường trú và nơi ở: Số nhà 5/252 Phố ĐP, phường NB, thành phố NB, tỉnh NB; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp trước khi bị bắt: Giám sát bán hàng - Công ty CPTM Phú Thái Hà Nội; Con ông Bùi Văn T và bà Quách Thị K; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; vợ Đinh Thị Thu H, sinh năm 1996; có 02 con: con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/11/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Có mặt.

1.2. Họ tên: Nguyễn Đức T, sinh năm 1990; Giới tính: Nam; ĐKTT và Nơi cư trú: Số nhà 16, tổ 1, phường Hai Bà Trưng, thành phố PL, tỉnh HN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp trước khi bị bắt: Giám sát bán hàng chi nhánh Hà Nam - Công ty CPTM Phú Thái Hà Nội; Con ông Nguyễn Đức N, sinh năm 1947 và bà Lê Thị C, sinh năm 1948; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 03; vợ Bùi Thị H, sinh năm 1993; có 02 con: con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/11/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Có mặt.

2. Người bào chữa cho các bị cáo:

2.1. Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức T: Ông Vũ Văn T, bà Nguyễn Thị KA và ông Lê Xuân T - Luật sư Công ty luật TNHH SALUS, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt ông T, bà A.

2.2. Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn Đ: Bà Trương Thanh H - Luật sư Văn phòng Luật sư Yến Đức, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

3. Trong vụ án còn có bị cáo Trần Thọ H, bị hại,người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty cổ phần thương mại Phú Thái Hà Nội (sau đây gọi tắt là Công ty Phú Thái) thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0104923411 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 29/9/2010. Công ty cổ phần thương mại Phú Thái Hà Nội thành lập chi nhánh tại Nam Định và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh số 0104923411-018; đăng ký lần đầu ngày 31/7/2018; đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 12/6/2020. Công ty Phú Thái chủ yếu kinh doanh các mặt hàng: Nước giặt, nước xả, dầu gội, dao cạo râu, băng vệ sinh.

Công ty Phú Thái có kho hàng đặt tại đường D5, khu công nghiệp Hòa Xá, phường Mỹ Xá, thành phố Nam Định. Ngày 25/6/2018, Công ty Phú Thái ký Hợp đồng lao động số 333/PTHN/18/HĐLĐ-PT với Trần Thọ H và phân công chức danh là nhân viên thủ kho tại chi nhánh Nam Định. H có nhiệm vụ nhập hàng, xuất hàng, quản lý hàng hóa tại kho chi nhánh. Quá trình quản lý kho, H được giao chìa khóa kho để mở cửa, đóng cửa khi nhập hàng, xuất hàng, kiểm kê hàng và phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiếu hụt về hàng hóa do hư hỏng, thất thoát.

Theo quy định của Công ty Phú Thái, việc xuất nhập hàng hóa như sau: Khi xuất hàng hóa phải có phiếu xuất kho, trên phiếu xuất kho phải có chữ ký của kế toán, nhân viên giao nhận hàng và chữ ký của thủ kho. Khi nhập hàng phải có phiếu giao hàng, trên phiếu giao hàng có chữ ký của thủ kho nhận hàng. Công ty quản lý hàng hóa trên hệ thống thông qua các chứng từ xuất hàng, nhập hàng có xác nhận của kế toán, thủ kho khi có phiếu xuất kho.

Tuy nhiên, khoảng cuối năm 2020, Trần Thọ H cần tiền tiêu sài cá nhân nên đã tự ý lấy hàng trong kho chi nhánh Nam Định của Công ty Phú Thái do H quản lý để bán mà không có phiếu xuất kho. Thời gian đầu do chưa quen biết khách hàng, H đã nhờ một số nhân viên giám sát của Công ty Phú Thái chào hàng với khách hàng và bán hàng cho H. Khi đã quen biết các đại lý trên địa bàn thành phố Nam Định, H đã chủ động liên hệ và trực tiếp bán hàng cho các đại lý trong đó có đại lý N Hiên (ở 30/245 đường Kênh, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) do anh Trần Thế N, sinh năm 1983 đứng tên chủ hộ kinh doanh; đại lý K Bàn (ở xóm Mỹ Tiến 2, xã Nam Phong, thành phố Nam Định) do anh Trần Như Bàn, sinh năm 1975 đứng tên chủ hộ kinh doanh; đại lý H Linh (ở số nhà 278 đường Đỗ Mạnh Đạo, phường Lộc Hòa, thành phố Nam Định) do chị Trần Thị H, sinh năm 1978 đứng tên chủ hộ kinh doanh. Khi tự ý xuất hàng trong kho để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, H chỉ đạo cho ba phụ kho là anh Đoàn Xuân L, anh Đoàn Quang T, anh Nguyễn Duy K lấy hàng hóa ra ngoài cửa kho. Khi xe của các đại lý đến thì H cùng ba phụ kho và lái xe xếp hàng lên xe cho khách hàng sau đó khách hàng thanh toán bằng hình thức chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của H.

Vào khoảng đầu tháng 10/2020, H gọi điện cho anh Nguyễn Văn H - Phó Giám đốc Công ty TNHH Bao bì kim loại CFC, địa chỉ: Lô 83 + 84 đường N3, cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phổ Nam Định để mua vỏ thùng catton, H trực tiếp đến Công ty anh H để đặt mua vỏ thùng theo yêu cầu kích thước của H. H đã tự đặt mua 4779 vỏ thùng và yêu cầu chở đến kho hàng của Công ty Phú Thái tại Nam Định. Sau khi có vỏ thùng, H chỉ đạo cho ba phụ kho dán băng dính các vỏ bìa catton thành thùng rỗng rồi xếp vào bên trong các thùng hàng có thật nhằm che dấu hàng hóa thất thoát khi Công ty Phú Thái kiểm kê hàng hóa, Ngoài ra, trong quá trình quản lý kho hàng, H còn cho nhân viên bán hàng và nhân viên giám sát vay hàng trong kho khi cần xuất hàng gấp cho khách, sau đó nhân viên bán hàng và nhân viên giám sát hoàn phiếu xuất kho trả cho H.

* Việc H nhờ các nhân viên giám sát bán hàng giúp H như sau:

H nhờ Bùi Văn Đ, sinh năm 1983, ở 5/252 Phố Đ Phong, phường Nam Bình, thành phố N Bình: Trong thời gian từ ngày 08/11/2021 đến 21/01/2022, Trần Thọ H nhờ Bùi Văn Đ bán hộ hàng hóa lấy từ kho Công ty chi nhánh Nam Định, biết H cần tiền sử dụng cá nhân nên Đ đồng ý giúp H. Bùi Văn Đ đã liên hệ với chị Vũ Thị K (chủ đại lý K Bàn), địa chỉ: Xóm Mỹ Tiến 2, xã Nam Phong, thành phố Nam Định để chào bán hàng hóa là dầu gội, dầu xả, nước giặt. Từng lần H nhờ Đ bán hàng, Đ trực tiếp liên hệ, giao dịch với chị K qua tin nhắn, zalo điện thoại để trao đổi, thỏa thuận việc mua bán hàng hóa. Cụ thể: Giá bán thấp hơn so với giá Công ty quy định từ 20% đến 25%, Đ yêu cầu chị K thanh toán trả tiền mua hàng cho H bằng chuyển khoản vào tài khoản cá nhân của H, sau khi đặt hàng thì đại lý K Bàn trực tiếp cho xe ô tô đến kho chi nhánh Nam Định để nhận hàng. Đ giúp H bán hàng hóa tổng số 15 lần, chị K trả tiền bằng hình thức chuyển khoản vào số tài khoản 0831000079X (ngân hàng Vietcombank) của Trần Thọ H tổng số tiền 1.464.205.000 đồng, hàng hóa xuất bán không có phiếu xuất kho và hóa đơn chứng từ.

Ngoài ra, nhiều lần H nhờ Đ đánh giúp đơn hàng để bù vào số hàng hóa H đã lấy từ kho Công ty đem bán trước đó rồi chuyển tiền cho Đ để Đ nộp trả Công ty. Từ ngày 01/9/2021 đến ngày 13/4/2022, H đã chuyển khoản tiền từ tài khoản của H (số tài khoản 0831000079X) đến tài khoản của Đ (số tầi khoản 12010006793843) tổng cộng 38 lần, với số tiền:

1.079.377.000 đồng.

- H nhờ Nguyễn Đức Th, sinh năm 1990, ở số nhà 16, tổ 1, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam: Ngày 16/4/2022 Th báo cáo với kế toán tỉnh N Bình xin điều chuyển một số lượng hàng trong đó có mặt hàng dầu gội Pantine từ kho chi nhánh Nam Định về kho chi nhánh N Bình. Th điều 2 xe ô tải của Công ty từ chi nhánh N Bình sang chi nhánh Nam Định để lấy hàng. Lái xe đến Văn phòng chi nhánh Nam Định lấy “Phiếu xuất kho điều chuyển nội bộ” để đưa cho H xuất hàng theo phiếu xuất kho. Khi được H nói trong kho không còn đủ lượng hàng dầu gội Pantine để xuất theo yêu cầu, lái xe có liên lạc với Th thiếu lượng hàng theo phiếu xuất kho điều chuyển nội bộ. Lúc này H cũng gọi điện thoại cho Th và nói tại kho Nam Định thiếu 304 thùng Pantine loại 650ml với giá trị 184.800.000 đồng (do H đã tự ý bán hàng của Công ty trước đó) nên Trần Thọ H nhờ Th nhận đủ theo phiếu xuất kho và khi xe hàng về đến kho N Bình sẽ đánh đơn số lượng hàng thiếu coi như đã bán cho khách hàng, H sẽ nộp tiền sau. Th đã đồng ý giúp H, Th gọi điện bảo lái xe cứ nhận số hàng còn lại trên phiếu rồi chở về kho N Bình. Th báo cho nhân viên bán hàng chi nhánh Hà Nam đặt số lượng hàng Pantine thiếu trên hệ thống chi nhánh cho một khách hàng, đồng thời Th báo với nhân viên giao hàng chi nhánh Hà Nam là số lượng hàng trên đã giao cho khách hàng, Th sẽ chịu trách nhiệm thu tiền. Đến ngày 19/4/2022 Th gọi điện thoại cho H để đòi tiền đơn hàng thiếu mà H nhờ Th, H trả lời “chưa có tiền” và nói “trả lại cho Th 350 thùng Ariel loại nước giặt 3 lít ở trong kho chi nhánh Nam Định do H quản lý để bán trừ số tiền tương đương số hàng 304 thùng Pantine” (tương đương 184.800.000 đồng). H bảo Th thuê xe ô tô tải đến kho chi nhánh Nam Định để lấy hàng, Th đồng ý. Đến ngày 20/4/2022 Th thuê xe của anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1975 ở Liêm Tuc, Thanh Liêm, Hà Nam do anh Nguyễn Vãn L (em trai anh T) lái xe đến kho chi nhánh Nam Định để lấy hàng. Th không đi cùng xe, lúc đó H không có ở kho, Th gọi điện cho H cũng không được, Th nhờ Đ giám sát chi nhánh Nam Định báo lại kho có xe lấy hàng 350 thùng Ariel loại nước giặt 3 lít, Đ liên lạc với kho chi nhánh Nam Định để cho xe Th vào lấy hàng và cho Th số điện thoại của phụ kho để liên lạc, phụ kho có nói trên điện thoại “anh H dặn xuất cho anh Th 350 thùng Ariel loại nước giặt 3 lít” sau đó phụ kho xếp 350 thùng Ariel loại nước giặt 3 lít lên xe. Nhận đủ hàng, anh L lái xe về nhà anh T. Sáng hôm sau Th bảo Nguyễn Văn Ha, sinh năm 1984, ở tổ 10, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý là nhân viên giao nhận hàng của Công ty Phú Thái chi nhánh Hà Nam đi cùng xe anh L chở hàng giao cho anh Vũ Đức Hu, sinh năm 1987 ở kho 14, đường Mạc Thị Bưởi, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội (Th thỏa thuận với anh Hu bán 350 thùng Ariel với giá 196.000.000 đồng). Sau khi giao hàng, Ha nhận của anh Hu số tiền 150.000.000 đồng về giao cho Th, anh Hu chuyển khoản trả 46.000.000 đồng cho Th, số hàng này Th lấy tại kho chi nhánh Nam Định, không có giấy tờ, hóa đơn, Th bán cho khách hàng cũng không có giấy tờ, hóa đơn. Ngày 21/4/2022, Th nộp số tiền 184.800.000 đồng về Công ty để trả tiền cho đơn hàng 304 thùng Pantine loại 650ml đã đánh bù đơn hàng giúp H.

Ngoài ra, nhiều lần H nhờ Th bán hàng hộ rồi Th chuyển tiền cho H. Sau đó lại nhờ Th đánh giúp đơn hàng để bù vào số hàng hóa H đã lấy từ kho Công ty đem bán trước đó rồi chuyển tiền cho Th để Th nộp trả Công ty. Từ ngày 19/4/2021 đến ngày 24/1/2022, có 12 lần Th chuyển tiền cho Trần Thọ H từ tài khoản của Th số tài khoản 12010006675X của ngân hàng BIDV vào tài khoản của H số tài khoản 0831000079X ngân hàng Vietcombank với tổng sổ tiền 759.832.000 đồng và từ ngày 22/9/2020 đến ngày 06/4/2022, có 26 lần Trần Thọ H chuyển tiền vào tài khoản của Th, sổ tài khoản 12010006675X ngân hàng BIDV với tổng số tiền 902.633.700 đồng.

Ngày 20/4/2022, H bị Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Nam Định bắt về hành vi đánh bạc. Do không liên lạc được với H nên ngày 23/4/2022 Công ty kiểm kê kho có sự chứng kiến của chị Phạm Thị Thu Ho (là vợ H), chị Trần Thanh Tu (chị gái H), đã phát hiện bị thất thoát nhiều hàng hóa trong kho. Công ty tiến hành niêm phong kho hàng và báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định. Ngày 29/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Nam Định đã kết hợp cùng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định và các thành phần liên quan tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác định: có 3.200 vỏ thùng bìa caton rỗng xếp vào giữa các thùng có hàng trong kho và ghi nhận số lượng hàng hóa có ở trong kho. Ngày 05/05/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Nam Định ghi nhận hiện trường phía ngoài kho có nhiều vỏ bìa caton gấp gọn xếp thành đống.

Công ty CPTM Phú Thái Hà Nội cung cấp các tài liệu chứng minh: Hàng hóa đầu vào, hàng hóa đầu ra; Bảng tổng hợp xuất nhập tồn từ ngày 19/12/2021 đến 20/4/2022; Bảng tổng kiểm kê hàng hóa tại kho chi nhánh Nam Định ngày 19/12/2021 và Bản kiểm kê hàng hóa thất thoát tại kho chi nhánh Nam Định ngày 29/4/2022. Công ty xác định: số lượng hàng hóa trong kho chi nhánh Nam Định bị thất thoát là 137.475 sản phẩm (quy ra lẻ) tương đương giá trị 9.071.416.187 đồng và thừa 51 thùng và 89 sản phẩm lẻ của 3 loại mặt hàng tương ứng giá trị 27.525.451 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HDDGTS ngày 11/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Nam Định xác định: Giá trị của 137.475 sản phẩm là 9.127.605.986 đồng. Giá trị 350 thùng Ariel là 221.453.600 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 12/5/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định quyết định: Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Văn Đ, Nguyễn Đức Th phạm tội “Tham ô tài sản”. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 353; s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2022. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 353; b khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Th 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04-11-2022. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Trần Thọ H, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật.

Ngày 25/5/2023, các bị cáo Bùi Văn Đ, Nguyễn Đức Th kháng cáo giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Bùi Văn Đ, bị cáo Nguyễn Đức Th giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thừa nhận bản án sơ thẩm quy kết là đúng pháp luật; trình bày gia đình hoàn cảnh khó khăn, cung cấp thêm một số tình tiết giảm nhẹ mới và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Các Luật sư bào chữa cho Bùi Văn Đ và Nguyễn Đức Th đề nghị xem xét vai trò, nhân thân, điều kiện hoàn cảnh gia đình, tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị giảm nhẹ xuống mức thấp nhất cho Đ và Th.

Đ diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, vai trò, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của các bị cáo, kết luận: Bị cáo Bùi Văn Đ bị xử phạt về tội “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 353 và bị cáo Nguyễn Đức Th bị xử phạt về tội “Tham ô tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan; Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử Bùi Văn Đ mức án 15 năm 06 tháng tù, bị cáo Nguyễn Đức Th mức án 08 năm tù là thỏa đáng. Tại cấp phúc thẩm, mặc dù các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới, nhưng mức án cấp sơ thẩm xử phạt là phù hợp, đề nghị không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên hình phạt đối với Bùi Văn Đ, Nguyễn Đức Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai nhận của Trần Thọ H, phù hợp với lời khai các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của những người liên quan, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thống nhất với kết luận của cấp sơ thẩm như sau: Trần Thọ H là thủ kho của Công ty cổ phần thương mại Phú Thái Hà Nội - Chi nhánh Nam Định. Từ năm 2020 đến tháng 4/2022, do cần tiền để chi tiêu cá nhân, Trần Thọ H lợi dụng chức năng, nhiệm vụ của mình được Công ty giao quản lý tài sản đã tự ý lấy hàng hóa trong kho của Công ty đem bán không có hóa đơn, chứng từ và chiếm đoạt tiền của Công ty. Bùi Văn Đ là nhân viên giám sát bán hàng của Công ty cổ phần thương mại Phú Thái. Đ biết H cần tiền; từ ngày 08/11/2021 đến ngày 21/01/2022, Đ giúp H liên hệ với đại lý K Bàn chào bán hàng, giá bán thấp hơn giá Công ty từ 20% - 25%. Đ biết quy trình xuất, nhập hàng của Công ty, biết H không có chức năng, nhiệm vụ bán hàng nhưng do nể nang H thường xuyên cho Đ vay hàng xuất cho khách hàng trước rồi bù lại phiếu xuất kho sau, nên Đ đã giúp H giao dịch bán hàng và thực hiện bán hàng giúp H chiếm đoạt số tài sản trị giá 1.464.205.000 đồng. Nguyễn Đức Th là nhân viên giám sát bán hàng của Công ty cổ phần thương mại Phú Thái - Chi nhánh Hà Nam; biết H không có chức năng, nhiệm vụ bán hàng. Theo “Phiếu xuất kho điều chuyển nội bộ” mà Th đưa cho H xuất hàng ngày 16-4- 2022, trong đó có 304 thùng Pantine loại 650ml, nhưng được H thông tin là trong kho không còn đủ hàng nhưng Th đã không báo về Công ty, mà vẫn nhận đơn hàng là đủ giúp H. Tiếp theo H thỏa thuận trả bằng tiền để Th nộp vào Công ty, nhưng sau đó lại không trả bằng tiền mà lại trả bằng hàng, hàng lại cũng không đúng chủng loại, số lượng như “Phiếu xuất kho điều chuyển nội bộ” ngày 16-4-2022. Ngày 20-4-2022, Th thuê xe đến lấy 350 thùng Ariel tại kho Công ty cổ phần thương mại Phú Thái – chi nhánh Nam Định không có hóa đơn, chứng từ, không có phiếu xuất kho. Biết hàng nhận được không có hóa đơn, chứng từ, không có phiếu xuất kho nhưng sau đó vẫn đem bán cho khách hàng để trừ số tiền H nợ Th. Như vậy, Nguyễn Đức Th có hành vi giúp sức cho H lấy 350 thùng Ariel trong kho Công ty đem bán chiếm đoạt số tiền 221.453.600 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản”, tội phạm được quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự. Do bị cáo Đ giúp sức cho H chiếm đoạt số tiền 1.464.205.000 đồng; bị cáo Th giúp sức cho H chiếm đoạt số tiền 221.453.600 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm quy kết và xét xử bị cáo Bùi Văn Đ theo điểm a khoản 4 Điều 353 và bị cáo Nguyễn Đức Th theo điểm d khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo Bùi Văn Đ và Nguyễn Đức Th là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác. Vì động cơ tư lợi cá nhân các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, căn cứ số tiền chiếm đoạt thì H có vai trò chính, Đạt vai trò thứ hai, Th vai trò thấp nhất, nhưng không thành khận nhận tội. Số tiền chiếm đoạt lớn, phạm tội nhiều lần. Cấp phúc thẩm đồng tình cần có mức hình phạt nghiêm, việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội, phân hóa đúng vai trò của các bị cáo trong vụ án; áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như bị cáo Bùi Văn Đ phạm tội từ hai lần trở lên, khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ; bị cáo Th đã bồi thường khắc phục số tiền 20.000.000 đồng, bố đẻ có công với Cách mạng, áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt Đ mức án 15 năm 06 tháng tù; xử phạt Th 8 năm tù là thỏa đáng. Tại cấp phúc thẩm, thực sự ăn năn hối cải, xuất trình thêm tài liệu thể hiện đều hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính, bố mẹ già yếu, con nhỏ; Đ có đơn được chính quyền xác nhận khó khăn, nộp án phí sơ thẩm; Th thành khẩn nhận tội và nộp tiền án phí sơ thẩm, vợ bị cáo nộp khắc phục số tiền còn lại cho bị hại, đơn được địa phương xác nhận hoàn cảnh khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cấp phúc thẩm áp dụng cụ thể cho mỗi bị cáo được hưởng. Xét thấy, do được hưởng tình tiết mới, cấp phúc thẩm có căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt cho Đ và Th, thể hiện sự nhân đạo nhưng vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Kháng cáo giảm nhẹ của Đ, Th và quan điểm của các Luật sư bào chữa có cơ sở, được chấp nhận.

[4]. Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm không được chấp nhận.

[5] Về án phí: Các bị cáo kháng cáo được chấp nhận, nên không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Văn Đ và Nguyễn Đức T.

2. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 12/5/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định, cụ thể như sau:

2.1. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 353; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38; Điều 58; Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 15(mười lăm) năm tù, về tội: “Tham ô tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2022.

2.2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Tham ô tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2022.

Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo Nguyễn Đức Th (do chị Bùi Thị Hồng nộp thay) đã nộp số tiền 17.454.000đ (mười bảy triệu bốn trăm lăm bốn nghìn đồng) tiền bồi thường mà bản án sơ thẩm buộc bị cáo còn phải thi hành trả cho bị hại, thể hiện tại Phiếu thu ngày 10/11/2023 của Công ty cổ phần thương mại Phú Thái Hà Nội.

3. Về án phí: Các bị cáo Bùi Văn Đ, Nguyễn Đức Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Ghi nhận: Bị cáo Nguyễn Đức T đã nộp số tiền 1.072.680đ (một triệu không trăm bảy mươi hai nghìn sáu trăm tám mươi đồng) tại Biên lai thu số 0003495 ngày 20/10/2023; Bị cáo Bùi Văn Đ đã nộp số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu số 0004896 ngày 09/6/2023 đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nam Định.

4. Các quyết định khác sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 129/2024/HS-PT

Số hiệu:129/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về