TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 344/2023/HS-ST NGÀY 24/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 24 tháng 7 năm 2023, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 507/TLST-HS ngày 07/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2733/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Duy P; giới tính: Nam; Sinh năm 1989 tại Đồng Tháp; nơi đăng ký thường trú: Số B đường N, khóm B, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Căn hộ A, chung cư K, số C đường T, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Chánh H bà Nguyễn Thị Đ; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
- Ngày 17/8/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành án xong;
- Ngày 25/12/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành án xong;
- Ngày 23/4/2018, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù giam về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” đã chấp hành án xong.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/5/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Duy P:
Ông Huỳnh Trọng N, là Luật sư của Văn phòng L1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 11 giờ 20 phút ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trước số C đường T, phường T, quận T, Tổ công tác gồm: Đội 7 - Phòng PC04, Công an Thành phố H; Phòng 7 - Cục C1, Bộ C2; Đội 6 - Cục điều tra chống buôn lậu thuộc T5; Đội kiểm soát ma túy - Cục Hải quan Thành phố H; Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận T và Công an phường T, quận T phát hiện Nguyễn Duy P đang ôm 01 thùng hàng loại thùng xốp để đưa lên xe máy biển số 79Z1 – xxxxx do Nguyễn Tấn C điều khiển. Thấy có biểu hiện nghi vấn nên Tổ công tác yêu cầu P và C đưa thùng hàng trên về Công an phường T, quận T để làm rõ. Qua kiểm tra thùng hàng có đặc điểm như sau: Bên ngoài có quấn băng keo ghi chữ “EMS, mã vận đơn: EZ074334187VN - Người nhận: N – 377 TAN HUONG PHUONG TAN QUY QUAN TAN PHU HCM - số điện thoại người nhận: 093260xxxxx”, bên trong đựng 01 (một) thùng giấy, đựng 05 (năm) hộp giấy ghi chữ “felix”; trong mỗi hộp giấy đựng 01 (một) túi nylon chứa nhiều viên nén màu xám là ma túy, có tổng khối lượng 1.814,98 gam, loại MDMA. Qua làm việc, P khai nhận vận chuyển trái phép chất ma túy cho người thanh niên tên T (không rõ lai lịch) nên Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Duy P và thu giữ, niêm phong số ma túy trên. Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an T còn tạm giữ của Nguyễn Duy P 03 điện thoại di động (trong đó có 01 điện thoại sử dụng sim số 093260xxxxx.
Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Duy P, tại căn hộ A, chung cư K, số C đường T, phường T, quận T phát hiện và thu giữ:
- Trên kệ gỗ ngay cửa ra vào phòng khách có 01 túi đeo màu đen, bên trong có 35 vật bằng kim loại, hình dạng giống viên đạn.
- Trong ngăn tủ phòng ngủ thứ nhất có 01 túi nylon chứa 06 vật bằng kim loại, hình dạng giống viên đạn.
- Trong phòng ngủ thứ hai gồm:
+ Trong ngăn tủ phía trên cùng ngay cửa ra vào có 01 hộp giấy, bên trong có 03 gói nylon chứa ma túy, có khối lượng 2,1433 gam, loại Methamphetamine;
01 gói nylon chứa chất bột màu xanh và 01 viên nén màu xanh là ma túy, có khối lượng 0,3433 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa 02 mảnh vụn viên nén màu xanh là ma túy, có khối lượng 0,4798 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa chất bột màu cam là ma túy, có khối lượng 0,8441 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa 06 viên nén màu hồng là ma túy, có khối lượng 2,0433 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu cam là ma túy, có khối lượng 0,5081 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa 15 viên nén màu xanh là ma túy, có khối lượng 4,9223 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa nhiều viên nén màu hồng là ma túy, có khối lượng 29,5425 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa nhiều viên nén và chất bột màu xanh là ma túy, có khối lượng 5,3243 gam, loại MDMA; 01 gói nylon chứa nhiều viên nén màu cam là ma túy, có khối lượng 20,3886 gam, loại Heroine; 08 gói nhựa có in chữ “Vitamine C 1000MG” chứa chất bột màu trắng, có khối lượng 63,2854 gam , nhưng không tìm thấy ma túy;
01 đoạn ống hút nhựa và 01 cân điện tử.
+ Dưới chân tủ có 01 túi giấy, bên trong có 01 túi nylon chứa nhiều viên nén nhiều màu gồm: 01 viên nén màu tím, có khối lượng 0,2865 gam không tìm thấy ma túy; 01 viên nén màu hồng, có khối lượng 0,7312 gam không tìm thấy ma túy; Các mảnh vụn và bột màu trắng ngà là ma túy, có khối lượng 0,7905 gam, loại MDMA.
+ Trên bàn gỗ ngay cửa ra vào có 01 cuốn sổ màu xanh, ngoài bìa có in chữ Trung Quốc.
Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Kết luận giám định số 3123/KL-KTHS ngày 08/6/2022 của Phòng K, Công an Thành phố H.
Quá trình điều tra ban đầu Nguyễn Duy P khai nhận bản thân sử dụng ma túy tổng hợp từ khoảng tháng 12 năm 2021. Khoảng tháng 04/2022, thông qua bạn bè giới thiệu, P quen biết với T không rõ lai lịch, biết P không có nghề nghiệp ổn định và cần tiền tiêu xài nên T nhờ P nhận, giao ma túy giúp T và T sẽ trả tiền công cho P mỗi chuyến là thì P đồng ý. Ngày 27/5/2022, T liên lạc với P qua điện thoại di động (không nhớ số điện thoại của T), nói P đến một quán nước tại khu vực Cư xá B, Quận A, tại đây T giao cho P 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen gắn sim số 093260xxxxx và đưa trước cho P là 3.000.000 đồng tiền công. Tân dặn P chờ khoảng 01 đến 02 ngày sau sẽ có nhân viên bưu cục gọi vào số điện thoại 093260xxxxx báo P đến nhận hàng thì P đem về nơi ở của P cất giữ, chờ T liên lạc nhận lại thì T sẽ trả 12.000.000 đồng. Ngày 29/5/2022, P cùng Nguyễn Tấn C và T1 (không rõ lai lịch) sang nhà người bạn của T1 tên là T2 (không rõ lai lịch) sử dụng ma túy, sau đó T1 rủ P và C về nhà của T1 ngủ. Đến khoảng 7 giờ ngày 30/5/2022, có nhân viên bưu cục chuyển phát hàng gọi vào số 093260xxxxx, báo giao thùng hàng thì P biết là hàng của Tân dặn P nhận, nên P hẹn nhân viên bưu cục địa điểm giao nhận hàng là tại địa chỉ số C đường T, phường T, quận T. Sau đó, P kêu C lấy xe máy chở P về nhà P và đến khoảng 9 giờ ngày 30/5/2022 thì P rủ C ra quán nước gần nhà P uống cà phê, mục đích là nhờ C chở P cùng thùng hàng về nơi ở của P cất giữ, nhưng P không nói gì với C về nội dung Tân nhờ P nhận số ma túy như đã nêu trên.
Trong lúc ngồi chờ nhân viên bưu cục giao hàng, P đi vệ sinh và giao điện thoại (gắn sim 093260xxxxx) cho C, đồng thời dặn C nghe điện thoại giúp P và nếu có ai gọi đến báo giao hàng cho “anh T” thì xác nhận rồi báo lại cho P biết. Sau khi P đi vệ sinh xong ra gặp C thì C giao lại cho P điện thoại và nói có nhân viên bưu cục gọi đến giao hàng từ nước ngoài gửi về cho người tên “T” và C đã xác nhận việc nhận hàng với nhân viên bưu cục. Sau đó, P đi bộ đến trước địa chỉ số C, đường T, phường T, quận T để chờ nhân viên bưu cục đến giao hàng thì C điều khiển xe máy biển số 79Z1-xxxxx chạy theo sau và dừng xe tại trước địa chỉ trên, chờ P làm thủ tục nhận hàng. Khi P đang ôm 01 thùng hàng loại thùng xốp bên ngoài ghi chữ “EMS, mã vận đơn: EZ074334187VN - Người nhận: N – 377 TAN HUONG PHUONG TAN QUY QUAN T6 - Số điện thoại người nhận: 093260xxxxx” đi đến chỗ C dừng xe thì bị phát hiện bắt giữ.
Riêng số ma túy bị thu giữ khi khám xét tại chỗ ở là ma túy P mua của một nam thanh niên tên T3 (không rõ lai lịch) ở huyện B vào ngày 24/5/2022 với giá 8.700.000 đồng để sử dụng, nhưng chưa sử dụng hết thì bị khám xét thu giữ.
Sau đó, trong quá trình điều tra Nguyễn Duy P thay đổi lời khai không thừa nhận hành vi vận chuyển ma túy cũng như đã nhận của T 3.000.000 đồng như đã khai ban đầu. Tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được cùng với vật chứng là ma túy bị thu giữ đã đủ cơ sở xác định P đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên. Việc thay đổi lời khai của P chỉ nhằm để trốn tránh trách nhiệm hình sự mà P phải chịu.
Đối với Nguyễn Tấn C có hành vi phụ giúp Nguyễn Duy P nhận thùng hàng, nhưng không biết bên trong thùng hàng có chứa ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã bàn giao C cho Công an phường T xử lý hành chính về hành vi "sử dụng trái phép chất ma túy".
Đối với đối tượng tên T (không rõ lai lịch) thuê P vận chuyển cất giấu ma túy giúp và đối tượng tên T3 (không rõ lai lịch) ở huyện B là người bán ma túy cho P, do P khai không rõ nhân thân lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để xác minh, truy bắt để xử lý.
Vật chứng của vụ án:
- 01 (một) thùng niêm phong số 617/2022, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út L (PC09), đồng chí Vũ Phát Đ1-cán bộ phòng PC04; bên trong là mẫu còn lại sau giám định; 02 (hai) gói niêm phong số 617/2022, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út L (PC09), đồng chí Vũ Phát Đ1-cán bộ phòng PC04; bên trong là mẫu còn lại sau giám định; 05 (năm) hộp giấy màu xanh; 08 (tám) túi có in chữ “VITAMIN C 1000mg”; 17 (mười bảy) túi nylon màu trắng; 01 (một) túi nylon màu xanh.
- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia (…5416/4, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Iphone (Không kiểm tra I do không có nguồn điện, Imei khay sim: …064341, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia (Không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) cân điện tử và 01 (một) giỏ màu đen.
- 01 (một) đoạn ống hút nhựa; 01 (một) túi giấy; 01 (một) cuốn sổ màu xanh; nhiều túi nylon không chứa gì.
- 41 (bốn mươi mốt) viên đạn (kết quả giám định thuộc nhóm vũ khí thể thao) là của P xin của người bạn tên T4 (không rõ lai lịch) vào khoảng tháng 03/2022 để cất giữ tại phòng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã chuyển số đạn trên đến Công an quận T xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyễn Duy P về hành vi “Tàng trữ vũ khí thể thao” theo quy định của pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 122/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 28/02/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Duy P về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện những hành vi như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả. Như vậy bị cáo Nguyễn Duy P phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vận chuyển 1.814,98gam chất ma túy, loại MDMA và hành vi tàng trữ 2,1433gam Methamphetamine, 44,7982gam MDMA, 20,3886gam Heroine. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Duy P về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không thành khẩn nhận tội nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P mức án tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; từ 12 năm tù đến 13 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị phạt bổ sung bị cáo 30.000.000 đồng.
Về vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa án xử lý theo qui định của pháp luật.
Luật sư Huỳnh Trọng N bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy P như sau:
Về tội danh: Luật sư đồng ý, không tranh luận.
Về hình phạt: Mức án tù tử hình đối với bị cáo là quá nặng. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo các tình tiết sau:
- Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
- Bị cáo tích cực hợp tác với Cơ quan điều tra trong việc giải quyết vụ án.
- Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án thấp hơn mức án Viện kiểm sát đề nghị và không áp dụng dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo đồng ý với lời bào chữa của luật sư, ngoài ra bị cáo còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo vì có một số tình tiết không đúng sự thật làm oan cho bị cáo như bị cáo đã trình bày ở trên.
Đại diện Viện kiểm sát tranh luận, đối đáp với Luật sư:
- Tại phiên tòa ngày 08/5/2023 và phiên tòa hôm nay, bị cáo đều quanh co, chối tội, nhằm trốn tránh trách nhiệm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
- Quá trình ghi lời khai đều có ghi âm, ghi hình nên đã được thực hiện đúng quy định, không có việc ép cung, nhục hình bị cáo.
- Bị cáo không có thái độ hợp tác nên không được áp dụng điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Bị cáo tự nguyện khai báo số ma túy ở nhà do bị cáo mua về, Cơ quan điều tra không hướng dẫn bị cáo khai.
Do đó, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm luận tội đối với bị cáo.
Luật sư tranh luận, đối đáp với đại diện Viện kiểm sát như sau:
Bị cáo không quanh co, chối tội mà chỉ muốn khai báo thêm để làm rõ vụ án, nên Luật sư giữ nguyên quan điểm, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo và Luật sư không có ý kiến tranh luận bổ sung và đều bảo lưu ý kiến đã tranh luận.
Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét trách nhiệm của các đối tượng tên Đ2 và tên T1 để làm rõ toàn bộ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa; Căn những chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được, có đủ căn cứ để xác định: Chất ma túy có khối lượng 1.814,98 gam, loại MDMA mà Tổ công tác liên ngành Bộ C2, Cục điều tra chống buôn lậu thuộc T5 và Công an Thành phố H bắt giữ quả tang vào lúc 12 giờ 00 phút ngày 30/5/2022, tại trước nhà số C đường T, phường T, quận T, là của bị cáo Nguyễn Duy P nhận vận chuyển cho người khác. Khối lượng các chất ma túy gồm: 2,1433 gam, loại Methamphetamine; 44,7982 gam, loại MDMA; 20,3886 gam, loại Heroine mà Công an quận T thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo Nguyễn Duy P tại căn hộ A, chung cư K, số C đường T, phường T, quận T, là của bị cáo P mua của người khác đem về cất giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Duy P đã đủ yếu tố cấu thành về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội, của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng. Nó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất gây nghiện, mà còn có khả năng xảy ra các hậu quả nghiêm trọng khác cho xã hội nếu khối lượng chất ma túy trên được phát tán đến tay người sử dụng. Bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xét xử về các tội xâm phạm sở hữu và xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân, nên có khả năng để nhận thức được mọi hành vi phạm tội đều bị pháp luật xử phạt rất nghiêm khắc. Nhận thức được vậy, nhưng vì động cơ, mục đích tư lợi nên bị cáo đã lao vào con đường phạm tội và lần phạm tội này có tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn, điều này cho thấy bị cáo là người là người bất chấp pháp luật, sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội khi cần. Tại phiên tòa bị cáo quanh co chối tội, nhưng quá trình điều tra bị cáo thừa nhận thùng xốp bên trong chứa chất ma túy mà Công an thu giữ khi bắt quả tang là của bị cáo nhận giúp cho người khác để mang về nhà; khai nhận khối lượng các chất ma túy cất giữ tại nhà là của bị cáo mua của người có tên T3 ở huyện B, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nǎm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nhưng mức độ xem xét giảm nhẹ không nhiều. Với tính chất vụ án mà bị cáo gây ra và với nhân thân của bị cáo như vậy, nên hình phạt áp dụng cho bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp và hình phạt như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay.
[4] Về xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo Nguyễn Duy P những tài sản và đồ vật sau:
- 01 (một) thùng niêm phong số 617/2022, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út L (PC09), đồng chí Vũ Phát Đ1-cán bộ phòng PC04; bên trong là mẫu còn lại sau giám định; 02 (hai) gói niêm phong số 617/2022, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út L (PC09), đồng chí Vũ Phát Đ1-cán bộ phòng PC04; bên trong là mẫu còn lại sau giám định; 05 (năm) hộp giấy màu xanh; 08 (tám) túi có in chữ “VITAMIN C 1000mg”; 17 (mười bảy) túi nylon màu trắng; 01 (một) túi nylon màu xanh. Đây là vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội và là vật cấm lưu hành, nên căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia (…5416/4, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Iphone (Không kiểm tra I do không có nguồn điện, Imei khay sim: …064341, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia (Không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong); 01 (một) cân điện tử và 01 (một) giỏ màu đen. Đây là vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội và còn giá trị nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu để sung vào ngân sách Nhà nước.
- 01 (một) đoạn ống hút nhựa; 01 (một) túi giấy; 01 (một) cuốn sổ màu xanh; nhiều túi nylon không chứa gì. Đây là những đồ vật không có giá trị nên căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu, tiêu hủy.
- 41 (bốn mươi mốt) viên đạn (kết quả giám định thuộc nhóm vũ khí thể thao) là của P xin của người bạn tên T4 (không rõ lai lịch) vào khoảng tháng 03/2022 để cất giữ tại phòng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã chuyển số đạn trên đến Công an quận T xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyễn Duy P về hành vi “Tàng trữ vũ khí thể thao” theo quy định của pháp luật là có căn cứ, đúng luật.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b, khoản 4 khoản 5 Điều 250; điểm h khoản 3 Điều 249;
điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự nǎm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P tử hình, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, 13 (Mười ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung là tử hình, thời gian chấp hành hình phạt kể từ ngày bị cáo bị tạm giam (Ngày 30/5/2022).
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên tịch thu, tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 (một) thùng niêm phong số 617/2022, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út L (PC09), đồng chí Vũ Phát Đ1-cán bộ phòng PC04; bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP1/190BB/2023;
- 02 (hai) gói niêm phong số 617/2022, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út L (PC09), đồng chí Vũ Phát Đ1-cán bộ phòng PC04; bên trong là mẫu còn lại sau giám định, mã số NP2/190BB/2023;
- 05 (năm) hộp giấy màu xanh; 08 (tám) túi có in chữ “VITAMIN C 1000mg”; 17 (mười bảy) túi nylon màu trắng; 01 (một) túi nylon màu xanh, mã số LT1/190BB/2023.
- 01 (một) đoạn ống hút nhựa; 01 (một) túi giấy; 01 (một) cuốn sổ màu xanh; nhiều túi nylon không chứa gì, mã số LT2/190BB/2023.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước các vật chứng sau:
- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia (…5416/4, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong), mã số DT1/190BB/2023.
- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Iphone (Không kiểm tra I do không có nguồn điện, Imei khay sim: …064341, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong), mã số DT2/190BB/2023.
- 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Nokia (Không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong), mã số DT3/190BB/2023.
- 01 (một) cân điện tử; 01 (một) giỏ màu đen, mã số LT2/190BB/2023. Các vật chứng đã nêu hiện đang được lưu giữ tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh theo biên bản giao nhận tang tài vật số NK2023/190 ngày 13/3/2023 được lập giữa Cục Thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh và PC04 - Công an Thành phố H.
Về án phí:
Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, để sung vào ngân sách Nhà nước.
Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 24/7/2023).
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.
Bản án về tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy số 344/2023/HS-ST
Số hiệu: | 344/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về