Bản án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng số 714/2021/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 714/2021/HSPT NGÀY 24/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 24 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 928/2021/TLPT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2021 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2021/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

* Bị cáo có kháng cáo:

Tô Văn T (tên gọi khác: Không); sinh ngày 10 tháng 6 năm 1991; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Trúc M, xã Lâu T, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn L và bà Lăng Thị Q; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Vũ Văn S - Văn phòng luật sư Thanh N thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 27/5/2021, tổ công tác Công an tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Làng L, xã La H, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện bắt quả tang Tô Văn T có hành vi vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng, vật chứng thu giữ của T gồm: 01 khẩu súng bằng kim loại màu đen có chiều dài khoảng 67cm, báng súng, ốp nòng súng bằng gỗ màu nâu xám, nòng súng và thân súng bằng kim loại dài khoảng 46,5 cm, súng có đầy đủ các bộ phận nòng súng, thân súng, báng súng, cò súng, búa đập, kim hỏa, ổ tiếp đạn, được niêm phong ký hiệu S1; 01 khẩu súng bằng kim loại màu đen có chiều dài khoảng 68 cm, báng súng, ốp nòng súng bằng gỗ màu nâu, nòng súng và thân súng bằng kim loại dài khoảng 59 cm, súng có đầy đủ các bộ phận nòng súng, thân súng, báng súng, cò súng, búa đập, kim hỏa, ổ tiếp đạn, được niêm phong ký hiệu S2; 06 viên đạn, trong đó 04 viên đạn vỏ bằng kim loại màu vàng, kích thước tương đồng nhau dài khoảng 5,2cm, đường kính đáy khoảng 1,5 cm; 01 viên đạn vỏ bằng kim loại màu nâu đỏ dài khoảng 4,2cm, đường kính đáy khoảng 1,5 cm; 01 viên đạn vỏ bằng kim loại màu nâu đỏ dài khoảng 3,9cm, đường kính đáy khoảng 1,5 cm, 6 viên đạn được niêm phong vào 01 bì ký hiệu S3. Ngoài ra, còn tạm giữ của T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α biển kiểm soát 20D1- 185.58, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Huawei vỏ màu trắng viền xanh, trong có lắp 02 sim là 0379 728 151 và 0865 122 624 và một số đồ vật khác như bao tải, túi nilon và 01 túi đựng vợt màu tím.

Cùng ngày khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô Văn T tại xóm Trúc M, xã Lâu T, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên nhưng không phát hiện thu giữ gì.

Tại Bản kết luận giám định số 4082/C09-P3 ngày 28/5/2021 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận:

+ Khẩu súng dài 67cm gửi giám định là súng tự chế bắn đạn ghém cỡ 32, thuộc vũ khí quân dụng và còn sử dụng để bắn được.

+ Khẩu súng dài 68cm gửi giám định là súng tự chế bắn đạn ghém cỡ 32 và đạn K44. Khẩu súng này thuộc vũ khí quân dụng và còn sử dụng để bắn được.

+ 06 viên đạn, mỗi viên đường kính 12,3mm là 06 viên đạn ghém tự chế cỡ 32, không phải đạn quân dụng. Trong 06 viên đạn này có 01 viên không có hạt nổ nên không sử dụng để bắn được, 05 viên đạn còn lại còn sử dụng để bắn được.

Quá trình điều tra xác định được hành vi phạm tội của bị cáo như sau: Khoảng năm 2016 trong một lần T đi rừng hái Trầm tại khu rừng Trúc M, xã Lâu T, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên, T có xin được của một người đàn ông không quen biết 01 khẩu súng dài 68cm bằng kim loại màu đen, phần báng súng đã bị hỏng. Sau khi xin súng về T lấy một thanh gỗ xoan ở trên rừng, dùng dao đẽo thành báng súng và chà mịn sau đó dùng búa, đinh đóng vào khẩu súng, rồi T đem súng đến một hang đá ở phía trước nhà, cách nhà T khoảng 300m cất giấu. Còn khẩu súng thứ 2 dài 67cm, bằng kim loại màu đen là do T tự chế tạo bằng cách: Năm 2017 khi T đang là công nhân tại Mỏ đá Trúc M thuộc Công ty xây dựng & phát triển nông thôn Miền núi, (địa chỉ tại xóm Trúc M, xã Lâu T, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên) T sử dụng điện thoại vào mạng xã hội YouTube để xem và học cách chế tạo súng. Sau đó T đến chợ La H, Võ N mua một ống sắt dài khoảng 1m T mang về Mỏ đá Trúc M dùng máy cắt cắt ngắn khoảng 30cm và dùng máy mài để mài nhẵn. Các bộ phận khác như cò súng, kim hỏa, ốp súng… T nhặt những mảnh sắt thừa ở mỏ đá và ở quanh nhà, T đã dùng máy cắt, máy mài của Mỏ đá Trúc M để cắt, mài cho các bộ phận ăn khớp với nhau, còn báng súng và ốp gỗ T lấy gỗ ở trên rừng rồi dùng dao để đẽo và mài mịn. Khi có đủ các bộ phận T đem về nhà lắp ráp thành khẩu súng hoàn chỉnh rồi đem đến hang đá ở trước nhà cất giấu cùng với khẩu súng trước đó. Sau khi có súng, T lại vào mạng xã hội YouTube để xem và học cách chế tạo đạn. Sau đó, T mua khoảng 15 - 20 chiếc cát tút (vỏ đạn) và một ít thuốc súng, hạt nổ của một người đàn ông bán hàng rong với giá khoảng 150.000đ, T đem về nhà chế tạo được khoảng 15 - 20 viên đạn ghém để đi săn bắn thú rừng. T đã sử dụng súng và đạn tự chế nêu trên đi săn bắn thú rừng ở gần nhà vài lần, mỗi lần đi săn bắn về T lại cất súng vào hang đá, còn lại 06 viên đạn T đem về nhà treo lên sào tre trong gian bếp.

Đến khoảng tháng 4/2021, T kết bạn Zalo với một người tên N (không biết họ, tên đệm, địa chỉ) qua nói chuyện N biết T có 02 khẩu súng nên hỏi mua hai khẩu súng của T với giá 5.000.000đ, T đồng ý và nói sẽ cho thêm N 06 viên đạn để bắn. Ngày 26/5/2021, N gọi điện cho T qua ứng dụng Zalo hẹn T ngày hôm sau sẽ lên xem, mua súng. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27/5/2021 N gọi điện cho T nói N đang ở cổng Làng L, xã La H bảo T mang súng ra cổng Làng L bán cho N, T đồng ý rồi điều khiển xe mô tô BKS 20D1-185.58 về nhà lấy 06 viên đạn ở trên sào gác bếp cho vào 01 túi vợt màu tím và lấy 01 bao tải màu xanh để lên giá phía trước của xe mô tô rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô đi đến hang đá nơi cất giấu súng, đến nơi T lấy 02 khẩu súng cho vào túi vợt màu tím và bỏ túi vợt vào bao tải màu xanh, quấn lại rồi để lên giá phía trước của xe mô tô, T tiếp tục điều khiển xe đi đến khu vực cổng Làng L, khi cách cổng làng khoảng 50m thì T gặp một người đàn ông đang đứng cạnh 01 chiếc xe taxi màu đỏ, T đến gần hỏi “có phải anh N không” thì người đàn ông trả lời “phải” rồi yêu cầu T cho xem súng. T lấy bao tải đựng súng đưa cho N, khi N vừa mở bao ra xem thì bị cơ quan Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, còn N chạy thoát.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2021/HS-ST ngày 16/9/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Tô Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”.Thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/9/2021 và ngày 30/9/2021, bị cáo Tô Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tô Văn T thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo Tô Văn T, nhưng cho rằng mức án là không phù hợp và quá nặng đối với bị cáo. Bị cáo T là người dân tộc sống ở vùng sâu, nhận thức pháp luật hạn chế và hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo T là lao động chính trong gia đình và gia đình bị cáo có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Văn T, sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho bị cáo Tô Văn T được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa đã kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tô Văn T về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tô Văn T thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc, nhận thức pháp luật còn hạn chế và có bố đẻ, ông ngoại được tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm cho bị cáo T một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Tô Văn T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian năm 2016-2017, Tô Văn T cất giấu 02 khẩu súng tự chế bắn đạn ghém 32 tại một hang đá gần nhà T ở xóm Trúc M, xã Lâu T, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27/5/2021, T vận chuyển 02 khẩu súng trên và 06 viên đạn tự chế đến khu vực xóm Làng L, xã La H, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên để bán cho người đàn ông tên N với giá 5.000.000 đồng, nhưng chưa kịp bán thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ của T 02 khẩu súng tự chế bắn đạn ghém cỡ 32 thuộc vũ khí quân dụng và 06 viên đạn ghém tự chế cỡ 32, không phải đạn quân dụng và một số đồ vật khác. Đối với hành vi chế tạo súng của T, theo T khai T tự chế tạo năm 2017 mà tại thời điểm này vũ khí được chế tạo thủ công không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp thì chưa được quy định là vũ khí quân dụng, do thời điểm đó Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày 25/11/2019 chưa được ban hành (có hiệu lực ngày 10/01/2020) nên không đủ căn cứ xem xét, xử lý T về hành vi chế tạo vũ khí quân dụng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tô Văn T về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Tô Văn T, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Tô Văn T thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối cải. Bị cáo Tô Văn T tuổi đời còn trẻ, là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu, vùng xa; có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; bị cáo phạm tội do tò mò và thiếu hiểu biết pháp luật. Gia đình bị cáo có công với Cách mạng, bị cáo T có bố đẻ được tặng thưởng Huy Chương chiến sỹ vẻ vang, ông ngoại bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì. Bố bị cáo có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có xác nhận của Công an xã Lâu T, huyện Võ N, tỉnh Thái Nguyên. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy mức án 24 tháng tù Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo Tô Văn T là có phần nghiêm khắc nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội giảm cho bị cáo Tô Văn T một phần hình phạt để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Tô Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Tô Văn T; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2021/HSST ngày 16/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên về phần hình phạt đối với bị cáo Tô Văn T.

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt: Bị cáo Tô Văn T 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2021.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Tô Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng số 714/2021/HSPT

Số hiệu:714/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về