TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 303/2022/HSST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT TÚY
Hôm nay, ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố B mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 292/2022/HSST ngày 30 tháng 6 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 303/2022/QĐXXST- HS ngày 04/7/2022, quyết định hoãn phiên tòa số 570/2022/QĐXXST-HS ngày 15/7/2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Tuấn D, Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;
Sinh năm: 2001 tại Đồng Nai;
Nơi cư trú: 232/55, khu phố 2, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Nghề nghiệp: Không. Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không;
Trình độ học vấn: Lớp 06/12;
Họ tên cha: Nguyễn Văn T, sinh năm 1977 (đã chết);
Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Mộng Đ, sinh năm 1975 (còn sống);
Bị cáo là con duy nhất trong gia đình, chưa có vợ, con;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/01/2022, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.
(bị cáo có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
a) Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Nguyễn Tuấn D là người nghiện mà túy. Khoảng 20 giờ ngày 17/01/2022, do cần mua ma túy để sử dụng nên D đi bộ đến khu vực gần khách sạn Minh Khang thuộc khu phố 1, phường T, thành phố B, Đồng Nai gặp một người thanh niên tên Tèo (không rõ lai lịch) mua 08 gói ma túy hàng khay và 26 viên thuốc lắc với giá là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng). Sau khi mua ma túy xong, D đi đến quán nước của Phạm Ngọc Anh, sinh năm 1998 (Hộ khẩu thường trú: Hòa Phú, Buôn Mê Thuột, Đắk lắk) tại địa chỉ số 60 khu phố 2, Tân Mai, B, Đồng Nai để chơi. Đến nơi thì D thấy có Đỗ Ngọc Phương Trâm, sinh năm 2000 (Hộ khẩu thường trú: Khu phố 3, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đồng Nai), Nguyễn Đình Toản, sinh năm 1996 (Hộ khẩu thường trú: B1/4, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai), Nguyễn Toàn Thắng, sinh năm 1995 (Hộ khẩu thường trú: ấp thanh Hóa, Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, Đồng Nai) và Hoàng Tiến Cường, sinh năm 2004 (Hộ khẩu thường trú: khu phố 4, phường Trảng Dài, thành phố B, Đồng Nai) đang ngồi chơi nên D đã rủ Trâm, Ngọc Anh, Toản, Cường và Thắng về nhà của D thuê tại số 71/14, khu phố 1A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai sử dụng ma túy thì tất cả đều đồng ý. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày D, Toản, Thắng, Cường về đến nhà của D, lúc này D lấy 06 viên thuốc lắc và 01 gói hàng khay ra rồi đổ vào đĩa sứ. Sau đó, cả nhóm sử dụng ma túy, được khoảng 15 phút thì Ngọc Anh về đến và cùng tham gia sử dụng ma túy chung còn Trâm thì đi ngủ. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 18/01/2022 thì có Trần Thái Châu, sinh năm 1990 (Hộ khẩu thường trú: 20/13, khu phố 5, phường Trảng Dài, thành phố B, Đồng Nai), Đỗ Cao Chí, sinh năm 1987 (Hộ khẩu thường trú: 2A5, khu phố 11, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai), Nguyễn Anh Tuấn, sinh năm 1989 (Hộ khẩu thường trú: Lô 10, khu phố Bình Dương, phường Long Bình Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai), Nguyễn Minh Hiếu, sinh năm 1992 (Hộ khẩu thường trú: khu phố 6, phường Trung Dũng, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) và Đinh Thanh Lâm, sinh năm 1993 (Hộ khẩu thường trú: khu phố 8, phường An Bình, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) đến tìm Ngọc Anh thì thấy nhóm của D đang sử dụng ma túy nên Châu, Chí, Tuấn, Hiếu và Lâm cũng vào tham gia cùng. Đến khoảng 02 giờ 40 phút cùng ngày thì cả nhóm bị Công an phường T, thành phố B bắt quả tang và thu giữ 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng, 03 viên nén màu hồng có logo “Levis” để ở trên đĩa sứ màu trắng, 01 đĩa sứ hình tròn, 01 loa, 01 máy tính xách tay, 01 thẻ nhựa, 01 đèn nháy và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng) cuộn tròn. Công an phường T, thành phố B tiếp tục kiểm tra nơi ở của D thì thu giữ 07 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu hồng có logo “Levis” ở phía dưới nệm trong phòng ngủ và 01 gói nylon chứa 18 viên nén màu hồng có logo “Levis” trong ngăn kéo tủ ở nhà bếp, Nguyễn Tuấn D khai các gói nylon chứa tinh thể màu trắng và viên ném màu hồng là ma túy nên Công an phường T, thành phố B đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý theo thẩm quyền.
- Vật chứng vụ án:
+ 01 loa, 01 máy tính xách tay, 01 đĩa sứ hình tròn, 01 thẻ nhựa và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng) cuộn tròn của Nguyễn Tuấn D.
+ 01 đèn nháy của Nguyễn Đình T mang đến sử dụng vào việc phạm tội.
+ 01 gói nylon chứa 03 viên nén màu hồng (ký hiệu M11), 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M12) đã được niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Tuấn D và hình dấu của Công an phường T, thành phố B.
+ 01 gói nylon chứa 18 viên nén màu hồng (ký hiệu M21), 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu hồng (ký hiệu M22), 07 gói nylon hàn kính chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M23) đã được niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Tuấn D và hình dấu của Công an phường T, thành phố B.
Tại Kết luận giám định số 172/KLGĐ-PC09 ngày 25/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:
“- Mẫu viên nén màu hồng được niêm phong (ký hiệu M11) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,2028 gam, loại MDMA.
- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M12) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,6672 gam, loại: Ketamine.
- Mẫu viên nén màu hồng được niêm phong (ký hiệu M21) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 7,2127 gam, loại MDMA.
- Mẫu viên nén màu hồng được niêm phong (ký hiệu M22) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,8007 gam, loại MDMA.
- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M23) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 12,7010 gam, loại: Ketamine.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại Bản cáo trạng số 306/CT-VKSBH ngày 23/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn D, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm n khoản 2 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất túy”, theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.
Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn D về tội danh và điều luật như cáo trạng đã thể hiện, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249 và tội và điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn D mức án 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; mức án từ 07 (bảy) đến 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về việc truy tố của Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa sơ thẩm, V bị cáo Nguyễn Tuấn D khai nhận:
Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/01/2022, tại nhà số 71/14, khu phố 1A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Đình T, Nguyễn Toàn Th, Hoàng Tiến C (sinh ngày 03/3/2004), Trần Thái Châu, Đỗ Cao Chí, Nguyễn Anh T, Nguyễn Minh H và Đinh Thanh L thì bị lực lượng công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B điều tra, xử lý theo thẩm quyền.
Theo kết luận ma túy bị cáo tàng trữ là 9,2162 gam ma túy loại MDMA và 14,3682 gam ma túy loại Ketamine, bị cáo đồng ý với kết luận giám định.
Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác thể hiện tại hồ sơ vụ án, từ đó đã có đủ căn cứ để xác định hành vi phạm tội của các bị cáo. Qua xem xét nhân thân và hành vi của bị cáo xét thấy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm n khoản 2 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất túy”, theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng căn cứ pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách của nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục đối với bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nên xem xét giảm nhẹ một phần về mức hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.
- Tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ hình tròn và 01 thẻ nhựa.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 loa, 01 đèn nháy, 01 máy tính xách tay và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng) bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Đối với Phạm Ngọc Anh ở chung nhà với Nguyễn Tuấn D nhưng Ngọc Anh không biết việc D tàng trữ ma túy nên không xử lý Hình sự nhưng Ngọc Anh có tham gia sử dụng ma túy nên Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo khoản 1 điều 23 nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ đối với Ngọc Anh là có căn cứ.
Đối với Nguyễn Đình T, Nguyễn Toàn Th, Trần Thái Ch, Đỗ Cao Ch, Nguyễn Anh T, Nguyễn Minh H và Đinh Thanh L có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính mỗi đối tượng 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo khoản 1 điều 23 nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ là có căn cứ.
Đối với Hoàng Tiến C (sinh ngày 03/3/2004), có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Do Cường chưa đủ 18 tuổi nên Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính “Cảnh cáo” theo khoản 1 điều 23 nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ là có căn cứ.
Đối với người tên Tèo (không rõ nhân thân lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Tuấn D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất túy”.
Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo bị cáo Nguyễn Tuấn D 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
Xử phạt bị cáo bị cáo Nguyễn Tuấn D 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;
Áp dụng điều 55 Bộ luật hình sự.
Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 14 (mười bốn) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2022.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định(gói niêm phong số 172/KLGĐ-PC09 ngày 25/01/2022).
- Tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ hình tròn và 01 thẻ nhựa.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 loa, 01 đèn nháy, 01 máy tính xách tay và 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng).
(Tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/7/2022 và biên lai thu tiền số 0001925 ngày 19/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố B).
Án phí Hình sự sơ thẩm :
- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất túy số 303/2022/HSST
Số hiệu: | 303/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về