TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 98/2021/HS-PT NGÀY 06/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lI số: 97/2021/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Tấn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Yên.
- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Tấn H, sinh năm 1999; tại tỉnh Phú Yên. Nơi cư trú: Khu phố X, thị trấn Y, huyện P, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn) 08/12; nân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Tấn N, sinh năm 1970 và bà Trần Thị Đ, sinh năm 1973; có vợ Trịnh Thị Mỹ D, sinh năm 1998 và 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 01/11/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Phú Yên xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 23/6/2017 bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Yên xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 01 năm 03 tháng tù, chấp hành xong ngày 07/9/2018; tạm giam từ ngày 12/3/2021; có mặt.
Ngoài ra, vụ án còn có bị cáo Hà Tôn V nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 12/3/2021, Hà Tôn V đi bộ đến nhà của Tạ Như I, sinh năm 1991; trú tại: Thôn Q, xã K, huyện P chơi và nảy sinh I định mua ma túy về để sử dụng, nên mượn điện thoại của I liên hệ với Phạm Tấn H hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, H đồng I. Tại nhà H ở khu phố X, thị trấn Y, huyện P, khi V đưa cho H 300.000 đồng, H đưa cho V một bịch nilon có chứa chất tinh thể màu trắng, thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên tay V 01 bịch nilon trong suốt có kích thước (3,2 x 1,3)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, tiến hành niêm phong đánh dấu kI hiệu A3; thu giữ trên tay H 01 bịch nilon trong suốt có kích thước (7x4)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, tiến hành niêm phong đánh dấu kI hiệu A2. Khám xét khẩn cấp tại nhà Phạm Tấn H phát hiện thu giữ thêm 04 bịch nilon trong suốt có kích thước (7x4)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, tiến hành niêm phong đánh dấu kI hiệu A1; 16 bịch nilon trong suốt có kích thước (3,2 x 1,6)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng tiến hành niêm phong đánh dấu kI hiệu A4 và một số vật chứng, tài sản khác liên quan đến hoạt động mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy.
Quá trình điều tra còn xác định vào ngày 04/3/2021, tại khu phố X, thị trấn Y, huyện P, Phạm Tấn H bán 01 bịch ma túy Methamphetamine cho Trần Nhật S, sinh ngày 31/5/2005; trú tại: Khu phố X, thị trấn Y, huyện P, với số tiền 300.000 đồng. Lần bán ma túy này do Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1999; trú tại: Khu phố X, thị trấn Y nhờ S mua giúp.
Tại bản kết luận giám định số: 59/GĐ-PC09 ngày 14/3/2021của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên kết luận:
- Tinh thể màu trắng trong 04 bì nilon trong suốt hàn kín (kI hiệu A1, gồm: A1.1 = 4,992g; A1.2 = 5,020g; A1.3 = 4,969g; A1.4 = 4,960g) do Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện P, tỉnh Phú Yên gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 19,941g (mười chín phẩy chín bốn một gam) loại Methamphetamine.Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
- Tinh thể màu trắng trong bì nilon trong suốt hàn kín (kI hiệu A2) do Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện P, tỉnh Phú Yên gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,727g (một phẩy bảy hai bảy gam) loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
- Tinh thể màu trắng trong bì nilon trong suốt hàn kín (kI hiệu A3) do Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện P, tỉnh Phú Yên gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,158g (không phẩy một năm tám gam) loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
- Tinh thể màu trắng trong 16 bì nilon trong suốt hàn kín (kI hiệu A4 gồm: A4.1 = 0,130g; A4.2 = 0,290g; A4.3 = 0,157g; A4.4 = 0,155g; A4.5 = 0,156g; A4.6 = 0,145g; A4.7 = 0,190g; A4.8 = 0,139g; A4.9 = 0,162g; A4.10= 0,298g; A4.11 = 0,197g; A4.12 = 0,182g; A4.13 = 0,161g; A4.14 = 0,144g; A4.15 = 0,211g; A4.16 = 0,211g) do Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện P, tỉnh Phú Yên gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,928g (hai phẩy chín hai tám gam) loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2021/HS-ST ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Phú Yên đã tuyên bị cáo Phạm Tấn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Áp dụng Điểm g, Khoản 2 Điều 249; Điểm b, Khoản 2 Điều 251; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự; phạt Phạm Tấn H 05 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn phạt bị cáo Hà Tôn V – 01 năm 03 tháng tù; tuyên phần xử lI vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/10/2021 và ngày 12/10/2021 bị cáo Phạm Tấn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tấn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tuy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhưng xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp cần nghiêm trị, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo – Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng, tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Khoảng 11 giờ ngày 12/3/2021 tại nhà của Phạm Tấn H, ở khu phố X, thị trấn Y, huyện P, tỉnh Phú Yên. Công an huyện P bắt quả tang Hà Tôn V đang tàng trữ trên người 0,158 gam ma túy, loại Methamphetamine do Phạm Tấn H bán; thu giữ trên người và chỗ ở của H 24,59 gam Methamphetamine cùng nhiều vật dụng liên quan đến hoạt động mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; quá trình điều tra còn xác định, ngày 04/3/2021 Phạm Tấn H bán 01 bịch ma túy Methamphetamine cho Trần Nhật S; nên cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử Phạm Tấn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g, Khoản 2 Điều 249 và “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[2] Hành vi của bị cáo không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lI độc dược của Nhà nước, là nguyên nhân, mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội, mà còn gây mất trật tự trị an – an toàn xã hội ở địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, nhưng không tích cực sửa chữa lỗi lầm; nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy sẽ bị xã hội lên án và pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn tàng trữ và nhiều lần mua, bán trái phép chất ma túy, nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử – Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo cũng là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã khai báo thành khẩn tất cả các tình tiết về vụ án, tỏ thái độ thật sự ăn năn ăn hối cải; được chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú xác nhận là gia đình chính sách, có bà ngoại Đặng Thị Đ là người có công cách mạng, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến; bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhưng đã lập gia đình và vợ chồng đã có 02 con, trong đó con nhỏ nhất mới sinh năm 2021; bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm và đủ điều kiện áp dụng Khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để lượng hình. Thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo an tâm cải tạo, sớm hòa nhập cộng đồng.
[3] Bị cáo Phạm Tấn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lI và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo hoặc kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm c, Khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo – Sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tấn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng Điểm g, Khoản 2 Điều 249; Điểm b, Khoản 2 Điều 251; Điểm s, Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 55 Bộ luật Hình sự;
Phạt: Bị cáo Phạm Tấn H – 04 (Bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 06 (Sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo Phạm Tấn H phải chấp hành hình phạt chung là 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2021.
2. Bị cáo Phạm Tấn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy số 98/2021/HS-PT
Số hiệu: | 98/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về