TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 83/2021/HS-ST NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 11 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở TAND tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105a/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2021/HSST-QĐ ngày 14 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Dương Minh T.
Tên gọi khác: không - Giới tính: nam.
Sinh ngày 18 tháng 02 năm 1985 - Nơi sinh: tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: 305/38, tổ 9, khu phố T, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Quốc tịch: Việt Nam - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Phật. Nghề nghiệp: tài xế ôtô khách.
Trình độ học vấn: lớp 10/12.
Họ và tên cha: Dương Minh P - Sinh năm 1955 (đã chết).
Họ và tên mẹ: Phạm Thị Hồng Đ - Sinh năm: 1959. Gia đình có 03 anh em, bị can là thứ ba;
Có vợ tên: Trần Thị T1 sinh năm 1990 và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014.
Tiền án: không.
Tiền sự:
- Ngày 21/5/2021, bị Ủy ban nhân dân phường P, thành phố B xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ dao nhằm mục đích gây thương tích cho người khác” (Quyết định số 214/QĐ-XPVPHC).
Nhân thân:
- Ngày 28/5/2003, Dương Minh T bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xử phạt 02 năm tù, về tội “Cướp tài sản” và 01 năm tù, về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 133 và khoản 1 Điều 135 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hình phạt chung cho hai tội là 03 năm tù. Ngày 28/4/2005, T đã chấp hành xong bản án.
- Ngày 13/4/2016, Dương Minh T bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, xử phạt 04 năm 06 tháng tù, về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1999. Đến ngày 25/4/2018, T được miễn chấp hành hình phạt tù còn lại.
Bị bắt ngày 21/5/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 26/10/2020, Công an phường P, thành phố B, tiến hành kiểm tra hành chính nhà của Dương Minh T (tại số 305/38, tổ 9, khu phố T, phường P, thành phố B), thì phát hiện và thu giữ: 01 (một) khẩu súng (kiểu súng rulo, dài khoảng 20cm, phần báng súng được quấn băng keo màu đen, thân súng bằng kim loại có in chữ OPEN-F-S, số 18F20196), 03 (ba) viên đạn (có kích cỡ 5,6mm x 15,6mm), 01 (một) cây sắt có gắn đầu nhọn (dài khoảng 2,5 mét, 01 con dao cán gỗ dài khoảng 60cm), 01 (một) con dao tự chế (dài khoảng 90cm, dạng cây kiếm). Sau đó, Công an phường P chuyển giao vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, điều tra làm rõ xử lý.
* Tại kết luận giám định số 5899/C09B ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh- Viện khoa học hình sự kết luận: Khẩu súng gửi giám định nguyên là đồ chơi nguy hiểm được chế tạo thủ công lại toàn bộ phận kim hỏa và ổ chứa đạn. Tiến hành bắn thực nghiệm với loại đạn cỡ 5,6mm x 15,6mm, kết quả đạn nổ. Khẩu súng nêu trên có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc danh mục vũ khí quân dụng.
* Tại kết luận giám định số 26189/C09B ngày 07/5/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh- Viện khoa học hình sự kết luận:
03 (ba) viên đạn gửi giám định là đạn thể thao cỡ 5,6mm x 15,6mm, không thuộc danh mục vũ khí quân dụng. Không hoàn lại mẫu vật (03 viên đạn đã sử dụng bắn thực nghiệm).
* Tại Cáo trạng số 4065/CT-VKS-P1 ngày 07/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Dương Minh T về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKSND tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật đối với bị cáo, bị cáo đã được nhận đầy đủ Kết luận điều tra, cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại thắc mắc gì.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Dương Minh T đã khai nhận:
Từ tháng 08/2020 đến ngày 26/10/2020, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép : 01 (một) khẩu súng kiểu súng rulo (dài khoảng 20cm, phần báng súng được quấn băng keo màu đen, thân súng bằng kim loại có in chữ OPEN-F-S, số 18F20196). Khẩu súng này có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc danh mục vũ khí quân dụng. (Theo kết luận giám định số 5899/C09B ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh- Viện khoa học hình sự). Đến khoảng 23 giờ ngày 26/10/2020, bị cáo đang cất giấu khẩu súng trên cùng 03 viên đạn thể thao tại nhà số 305/38, tổ 9, khu phố T, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, thì bị Công an phường P, thành phố B kiểm tra, phát hiện thu giữ.
Với hành vi phạm tội nêu trên, bị cáo Dương Minh T bị VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố về về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm các quy định độc quyền của Nhà nước chế tạo, quản lý vũ khí quân dụng, đe dọa đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ khẩu súng (kiểu súng rulo) là vũ khí quân dụng, không được phép tàng trữ, sử dụng nhưng vẫn cố tình cất giấu trái phép, để phòng thân là hành vi vi phạm quy định của pháp luật và rất nguy hiểm cho người khác. Do đó, cần giành cho bị cáo một mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng xử phạt về các tội “Cướp tài sản”, “Cưỡng đoạt tài sản” và “Vận chuyển hàng cấm”. Tuy nhiên, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải nên HĐXX xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có cơ sở.
Đối với 01 cây sắt có gắn đầu nhọn (dài khoảng 2,5 mét, 01 con dao cán gỗ dài khoảng 60cm); 01 con dao tự chế (dài khoảng 90cm, dạng cây kiếm) thu giữ của bị cáo T. Ngày 21/5/2021, Dương Minh T bị Ủy ban ban nhân phường P, thành phố B, ra Quyết định xử phạt hình chính bằng hình thức phạt tiền và tịch thu tiêu hủy số cây sắt, dao trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý 01 (một) khẩu súng (kiểu súng rulo), trên thân súng có in chữ OPEN-F-S kèm số seri 18F20196 (Theo Quyết định nhập kho số 46/QĐ-BCH ngày 14/7/2021 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai và Lệnh nhập kho số 11-VC ngày 14/7/2021 của Phòng kỹ thuật - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai)
[4] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Đồng Nai phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Dương Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
[1] Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Dương Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2021.
[2] Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý 01 (một) khẩu súng (kiểu súng rulo), trên thân súng có in chữ OPEN-F-S kèm số seri 18F20196.
(Theo Quyết định nhập kho số 46/QĐ-BCH ngày 14/7/2021 của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai và Lệnh nhập kho số 11-VC ngày 14/7/2021 của Phòng kỹ thuật - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai)
[3] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo theo luật định.
Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 83/2021/HS-ST
Số hiệu: | 83/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về