Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 81/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 08 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 78/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2023/QĐXXST - HS ngày 27 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn A, sinh ngày 22/02/2002 tại tỉnh T; nơi cư trú: ấp B, xã T, huyện TB, tỉnh T; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức S và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/3/2023 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 10 năm 2022, do muốn có súng, đạn để phòng thân nên Nguyễn Văn A sử dụng tài khoản Facebook tên “Anh Nguyên” tìm kiếm trên mạng xã hội Facebook, thì thấy tài khoản Facebook (tên chữ nước ngoài) đăng bán súng, đạn, nên A sử dụng ứng dụng Messenger nhắn tin và liên lạc thì được người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng tài khoản Facebook trên giới thiệu các loại súng, đạn. A đặt mua 01 khẩu súng ngắn dạng Rulo và 07 viên đạn cao su với số tiền 5.000.000 đồng. Sau đó, A đến cửa hàng FPT Shop, địa chỉ số: 116, Khu phố 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh T chuyển số tiền 5.000.000 đồng vào số tài khoản Momo của người tên Như đ ể trả tiền mua súng, đạn. Khoảng 04 ngày sau, một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch, số điện thoại) gọi điện thoại hẹn gặp A tại khu vực vòng xoay thị trấn C để giao súng, đạn được cất giấu trong 01 hộp giấy. Sau khi nhận súng, đạn A mang về nhà của Phạm Văn T, sinh năm: 1997, ngụ: ấp H, xã B, huyện TB, tỉnh T kiểm tra, bên trong có 01 khẩu súng dạng Rulo, màu bạc, kèm theo 07 viên đạn cao su. Đến khoảng 13 giờ ngày hôm sau, A mang súng, đạn đến khu vực vườn mít và sầu riêng của ông Đoàn Văn H, sinh năm: 1961, ngụ: ấp H, xã Đ, huyện C bắn thử 01 viên đạn nổ. Sau đó, mang súng về lấy vỏ đạn đã bắn thử ra, lắp 06 viên đạn còn lại vào súng và để trong túi da màu đen, cất giấu dưới tấm nệm trong phòng ngủ. Ngày hôm sau, A đi uống cà phê cùng Nguyễn Đỗ Thành Đ, sinh năm: 2006, ngụ: ấp Q, xã Đ, huyện C, tỉnh T tại khu vực xã Đ, A đưa vỏ đạn cho Đ cất giữ.

Khoảng 13 giờ ngày 06/10/2022, Đ và Nguyễn Công H, sinh năm: 2006, ngụ: ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh T đến phòng ở của A chơi, tại đây gặp Phạm Trương Anh T, sinh năm: 2006, ngụ: Khu phố 1, thị trấn C, huyện TC, tỉnh T; Đ và H nằm trên nệm bấm điện thoại thì Đ phát hiện có khẩu súng được cất giấu trong túi da màu đen, nên chụp hình khẩu súng lưu giữ trong điện thoại. Khoảng 20 giờ cùng ngày, A, Đ, H và Phạm Ngọc T, sinh năm: 2003, ngụ: ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh T đến nhà người quen tại ấp H, xã Đ, huyện C chơi, thì bị Công an xã Đ, huyện C mời về trụ sở làm việc do nghi ngờ có liên quan đến vụ việc đánh nhau, khi kiểm tra điện thoại của Đạt phát hiện thấy có hình ảnh chụp súng, đạn. Qua làm việc A, Đ, H và T khai nhận khẩu súng trong ảnh là của A, nên Công an xã Thạnh Đông tiến hành kiểm tra nơi ở của A phát hiện, thu giữ khẩu súng ngắn dạng Rulo và 06 viên đạn.

Qua trình điều tra vụ án, Nguyễn Văn A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Ngoài ra, A đã tự khai ra việc sử dụng súng trước đó chưa bị phát hiện.

Kết luận giám định số 205/KL-KTHS, ngày 19/12/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

1. Khẩu súng gửi giám định nguyên là súng đồ chơi nguy hiểm dạng ổ quay, đã được thay đổi kết cấu ổ quay, kim hỏa, nòng súng để bắn được các loại đạn cỡ (9x22) mm. Súng này có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng, thuộc vũ khí quân dụng. Dùng súng trên bắn đạn phù hợp trúng vào cơ thể người có thể gây thương vong.

2. 06 viên đạn gửi giám định là đạn cao su cỡ (9 x 22) mm. Đây là đạn công cụ hỗ trợ. Dùng súng phù hợp bắn đạn nêu trên trúng cơ thể người có thể gây thương.

Ngày 29/5/2023, Cơ quan An ninh điều tra ra Quyết định số 09/QĐ-ANĐT trưng cầu phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh giám định 01 vỏ đạn do Nguyễn Đỗ Thành Đ giao nộp. Kết luận giám định số 3641/KL-KTHS, ngày 02/6/2023 của Phân viện KHHS: Đặc điểm dấu vết trên vỏ đạn gửi giám định (bị rách, thủng) không đủ cơ sở truy nguyên khẩu súng cụ thể bắn ra.

Kết quả thu giữ vật chứng:

01 túi da màu đen, đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T.

01 khẩu súng tự chế dạng Rulo màu bạc, tay cầm màu đen bằng nhựa cứng;

05 viên đạn cao su (9x22)mm, đít đạn kí hiệu YAS GLD PAK; 02 vỏ đạn (9x22)mm đít đạn kí hiệu YAS GLD PAK đã chuyển đến Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh T.

Qua xác minh thể hiện, Nguyễn Văn A không có tài sản, nên không tiến hành kê biên.

Bản cáo trạng số 83/CT-VKSTC ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Và đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn A thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh T, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T, Kiểm sát viên; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo như sau:

Do muốn có vũ khí quân dụng để phòng thân nên khoảng tháng 10/2022 Nguyễn Văn A đã thông qua mạng xã hội để mua một khẩu súng có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng, thuộc vũ khí quân dụng và 07 viên đạn cao su. Sau khi mua A đã mang súng ra khu vực ấp H, xã Đ, huyện C, tỉnh T để bắn thử một viên đạn. Đến khoảng 20 giờ ngày 07/10/2022 Công an xã Thạnh Đông, huyện C, tỉnh T kiểm tra nơi ở của A phát hiện và thu giữ 01 khẩu súng và 06 viên đạn còn lại. Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Cáo trạng số 83/CT – VKSTC ngày 20/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T truy tố đối với bị cáo và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện tội phạm bị cáo biết rõ việc tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục, cải tạo bị cáo và đồng thời mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa các tội phạm.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo tự thú ra lần phạm tội chưa bị phát hiện, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng và không có thu nhập ổn định nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

Đối với 01 khẩu súng tự chế dạng Rulo màu bạc, tay cầm màu đen bằng nhựa cứng; 05 viên đạn cao su (9x22)mm, đít đạn kí hiệu YAS GLD PAK; 02 vỏ đạn (9x22)mm đít đạn kí hiệu YAS GLD PAK hiện đang bị tạm giữ tại Kho vật chứng thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh T nên tiếp tục giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh T quản lý, xử lý theo quy định.

01 túi da, màu đen không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với người sử dụng tài khoản Facebook tên chữ nước ngoài, người sử dụng tài khoản Momo tên Như và người đàn ông giao súng, đạn cho Nguyễn Văn A, qua điều tra, xác minh chưa xác định được nhân thân, lai lịch, khi nào phát hiện điều tra, làm rõ, xử lý sau.

Đối với Nguyễn Đỗ Thành Đ, Nguyễn Công H và Phạm Trương Anh T biết Nguyễn Văn A cất giữ 01 khẩu súng và 06 viên đạn, nhưng nghĩ là súng đồ chơi; không biết khẩu súng trên là vũ khí quân dụng nên không xử lý đối với Đ, H và T.

Đối với Phạm Văn T, Phạm Ngọc T không biết, không liên quan đến việc Nguyễn Văn A tàng trữ, sử dụng trái phép súng, đạn nên không xử lý đối với T, T. [9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn A phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/3/2023.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh T quản lý, xử lý theo quy định của pháp luật 01 khẩu súng tự chế dạng Rulo màu bạc, tay cầm màu đen bằng nhựa cứng; 05 viên đạn cao su (9x22)mm, đít đạn kí hiệu YAS GLD PAK; 02 vỏ đạn (9x22)mm đít đạn kí hiệu YAS GLD PAK. (Các vật chứng trên hiện đang được nhập kho tại kho vũ khí đạn tỉnh/Phòng Kỹ thuật – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh T quản lý).

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi da, màu đen. (Vật chứng là túi da đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T theo biên bản giao vật chứng ngày 11-7-2023).

3 Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn A phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về