Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 81/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 30/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 30 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 78/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 44/2023/HSST-QĐ ngày 18/12/2023, đối với các bị cáo:

1. Hồ Quốc H (còn có tên gọi khác là T, Tư T1), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1977, tại T, A; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: (Không biết chữ); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: Không; con ông Hồ Văn Đ (đã chết) và bà Võ Thị Cúc T2 (đã chết); vợ: Nguyễn Thị Cẩm N (đã chết) và có 01 con.

Quá trình nhân thân: Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, không được đi học, phụ giúp gia đình.

- Tiền án:

+ Ngày 11/7/2000, bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản công dân”, chấp hành xong ngày 17/01/2001.

+ Ngày 26/6/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh A xử phạt 18 năm tù, về các tội “Cố ý gây thương tích”, “Chống người thi hành công vụ”, “Gây rối trật tự công cộng” “Hủy hoại tài sản”, chấp hành xong ngày 14/7/2016.

+ Ngày 10/5/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang xử phạt 05 tháng 26 ngày tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, chấp hành xong ngày 10/5/2021.

- Tiền sự: Không Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2023 đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh A.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lại Văn G - Đoàn Luật sư tỉnh A (có mặt).

2. Nguyễn Trí C (còn có tên gọi khác là Cường N1), sinh ngày 22 tháng 6 năm 2005, tại T, A; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: ấp H, xã Đ, huyện T, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: Không; con ông Nguyễn Thanh T3 và bà Nguyễn Thị Cẩm N2; chưa có vợ con.

Quá trình nhân thân: Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, đi học hết lớp 5 nghỉ, phụ giúp gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2023 đến nay, tại Trại Tạm giam Công an tỉnh A.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Hồ Hoàng P - Đoàn Luật sư tỉnh A (có mặt).

3. Nguyễn Quốc B (còn có tên gọi khác là Bảo B1), sinh ngày 29 tháng 3 năm 1998, tại T, A; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: Không; con ông Nguyễn Tấn T4 (đã chết) và bà Hồ Thị Thu H1; chưa có vợ, con.

Quá trình nhân thân: Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, được đi học hết lớp 3 nghỉ, phụ giúp gia đình. Ngày 30/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 02 năm tù, về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 20/01/2020.

- Tiền án: Ngày 28/02/2022, bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 01 năm tù, về tội “Gây rối trật tự công cộng”, chấp hành xong ngày 24/4/2022.

- Tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/5/2023 đến nay, tại Trại tạm giam Công an tỉnh A.

Người bào chữa cho bị cáo: Trợ giúp viên pháp lý Phan Văn H2 - Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh A (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Duy T5, sinh năm 2003; Nơi cư trú: ấp P, xã Đ, huyện T, tỉnh A - Vắng mặt.

2. Thái Phú V, sinh năm 2004; Nơi cư trú: ấp P, xã Đ, huyện T, tỉnh A - Vắng mặt.

3. Ngô Minh T6, sinh năm 2005; Nơi cư trú: ấp P, xã Đ, huyện T, tỉnh A - Vắng mặt.

4. Nguyễn Minh N3, sinh năm 1995; Hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh A - Vắng mặt.

5. Huỳnh Thị Ngọc G1, sinh năm 2006; Nơi cư trú: khóm B, thị trấn N, huyện T, tỉnh A - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 01/4/2023, Công an huyện T, tỉnh A nhận được điện thoại của quần chúng nhân dân báo tin tại nhà của Hồ Quốc H, ngụ khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A nghi vấn có chứa vũ khí quân dụng, nên tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của H. Qua khám xét đã phát hiện thu giữ: 05 khẩu súng, 01 quả nổ, 183 viên đạn, 01 vỏ đạn được đặt bên trong khúc gỗ rỗng ruột, 11 dao tự chế, 02 tay nắm kim loại, 03 bình xịt hơi cay...

Quá trình điều tra, xác định: Nguyễn Quốc B và Hồ Quốc H là anh em họ, khoảng tháng 05/2022 H thuê B đến giúp H nuôi gà, chăm sóc cây kiểng, vệ sinh và canh coi nhà tại khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A cho H. Đến tháng 07/2022 B giới thiệu Nguyễn Trí C (C, sinh ngày 22/6/2005) cùng đến làm công cho H. Khoảng tháng 9/2022, H đưa cho B 02 khẩu súng cùng 13 viên đạn (01 khẩu loại súng ổ quay, có lắp sẵn 06 viên đạn và 01 khẩu súng tự chế cùng 07 viên đạn) để cất giấu. B lấy túi nilon để 02 khẩu súng và số đạn chôn giấu xuống đất sát vách nhà của H tại khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A. Sau đó, H tiếp tục đưa cho C 03 khẩu súng (02 khẩu súng loại K54, 01 khẩu súng loại K59) cùng nhiều viên đạn, 01 quả lựu đạn để cất giấu. Sau khi nhận súng từ H, C nói với B thì được B chỉ nơi đã cất giấu súng trước đó nên C đem 03 khẩu súng và số đạn do H đưa đến cất giấu cùng nơi B đã cất giấu súng trước đó. Khoảng tháng 02/2023, sau khi H xây dựng xong căn nhà mới (cách nhà cũ khoảng 500 mét) thì B và C chuyển sang nhà mới ở và di dời 05 khẩu súng, 192 viên đạn, 01 quả lựu đạn đến khu vực bên cạnh nhà mới chôn giấu dưới đất. Để súng đạn không hư, sau đó B và C lấy súng, đạn đặt trong khúc gỗ rỗng ruột, rồi cất giấu cặp vách nhà. Tại đây, B và C đã nhiều lần lấy 05 khẩu súng ra để lau chùi, vệ sinh tại phòng ngủ của Huỳnh Thị Ngọc G1, Nguyễn Thị Linda Trang Đ1 (cũng là người làm của H) theo yêu cầu của H mỗi tuần 01 lần.

Trong quá trình giữ súng, khoảng tháng 3/2023 B rủ C mang khẩu súng bắn đạn hoa cải đến khu vực cầu Đ thuộc khóm Đ, thị trấn N, huyện T để bắn thử, C sử dụng súng bắn nhung không nổ, B bắn 01 viên đạn phát nổ, rồi cả hai đem súng về cất giấu. Khoảng vài ngày sau, C lấy 04 khẩu súng đi đến cầu thang dẫn xuống lòng hồ phía sau nhà của H, sử dụng mỗi khẩu súng bắn 01 viên đạn đều phát nổ. Khoảng 02 tuần sau, C tiếp tục lấy 04 khẩu súng bắn 04 viên đạn, C nhặt lại 01 vỏ đạn mang cất giấu cùng với 05 khẩu súng. Đến ngày 01/4/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T khám xét khẩn cấp nhà của H phát hiện thu giữ súng, đạn và đồ vật nhu nêu trên.

Kết luận giám định số 2461/KL-KTHS ngày 02/4/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- 02 khẩu súng ngắn gửi giám định (ký hiệu A và A1) là súng quân dụng K54, cỡ nòng 7,62mm; loại súng này thường sử dụng để bắn với đạn cỡ (7,62 x 25)mm.

- 01 khẩu súng ngắn gửi giám định (ký hiệu A2) là súng quân dụng K59, cỡ nòng 9mm; loại súng này thường sử dụng để bắn với đạn cỡ (9 x 18)mm.

- 01 khẩu súng tự chế bằng kim loại màu đen (ký hiệu A4) là súng tự chế một nòng nhẵn (dạng súng calip); súng sử dụng để bắn với đạn tự chế có đường kính thân 12mm (dạng đạn hoa cải); hiện tại súng có đủ bộ phận và bắn được đạn nổ. Khẩu súng trên là vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc nhóm vũ khí quân dụng.

- 01 khẩu súng ổ quay giám định (ký hiệu A3) là súng công cụ hỗ trợ, cỡ 9mm; loại súng này thường sử dụng để bắn với đạn công cụ hỗ trợ cỡ (9 x 22)mm.

Sử dụng 05 khẩu súng trên bắn với loại đạn phù hợp trúng cơ thể người có thể gây thương tích hoặc tử vong.

- 71 viên đạn gửi giám định (ký hiệu A5) là đạn quân dụng cỡ (7,62 x 25)mm; loại đạn này thường được sử dụng để bắn với một số loại súng cỡ nòng 7,62mm như: K54, K51, K43... và 02 khẩu súng (ký hiệu A và A1).

- 94 viên đạn gửi giám định (ký hiệu A6) là đạn quân dụng cỡ (9 x 18)mm; loại đạn này thường sử dụng để bắn với một số loại súng cỡ nòng 7,62mm như: K59, P63, CZ83... và khẩu súng (ký hiệu A2).

- 07 viên đạn bằng kim loại gửi giám định (ký hiệu A7) là đạn chế tạo thủ công (dạng đạn hoa cải) và thuộc nhóm vũ khí quân dụng; loại đạn này thường sử dụng để bắn với một số loại súng tự chế (dạng súng calip) có đường kính buồng đạn 12mm và khẩu súng (ký hiệu A4).

- 11 viên đạn và 01 vỏ đạn gửi giám định (ký hiệu A8 và A9) là vỏ đạn và các viên đạn của loại đạn cao su cỡ (9 x 22)mm và thuộc nhóm công cụ hỗ trợ; loại đạn này thường sử dụng để bắn cho một số súng công cụ hỗ trợ cỡ 09mm và khẩu súng (ký hiệu A3).

- 01 quả nổ gửi giám định (ký hiệu A10) là lựu đạn tập, loại hình cầu, vỏ bằng kim loại, thường dùng trong huấn luyện quân sự; quả lựu đạn này không có thuốc nổ, không có khả năng gây sát thương và không thuộc nhóm vũ khí quân dụng.

Ngày 10/4/2023 và 18/5/2023, H, C và B bị khởi tố để điều tra.

Tại Cáo trạng số: 115/CT-VKS-P1 ngày 08/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã truy tố: Hồ Quốc H, về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, quy định tại điểm g, h khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Trí C, về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự và Nguyễn Quốc B, về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra, Nguyễn Quốc B và Nguyễn Trí C khai nhận: Nguyễn Quốc B và Hồ Quốc H là anh em cô cậu, khoảng tháng 05/2022 H thuê B đến giúp H nuôi gà, chăm sóc cây kiểng, vệ sinh và canh coi nhà tại khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A cho H. Khoảng tháng 07/2022 B giới thiệu C cùng đến làm thuê cho H. Khoảng tháng 9/2022, H đưa cho B 02 khấu súng cùng 13 viên đạn (01 khẩu loại súng ổ quay, có lắp sẵn 06 viên đạn và 01 khẩu súng tự chế cùng 07 viên đạn) để cất giấu. B lấy túi nilon để 02 khẩu súng và số đạn chôn giấu xuống đất sát vách nhà của H tại khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A. H đưa cho C 03 khẩu súng (02 khẩu súng loại K54, 01 khẩu súng loại K59) cùng nhiều viên đạn, 01 quả lựu đạn để cất giấu. Sau khi nhận súng từ H, C nói với B thì được B chỉ nơi đã cất giấu súng trước đó nên C đem 03 khẩu súng và số đạn do H đưa đến cất giấu cùng nơi B đã cất giấu súng trước đó. H có dặn C và B mỗi tuần phải vệ sinh, lau dầu súng một lần. Đến tháng 02/2023, sau khi H xây dựng xong căn nhà mới (cách nhà cũ khoảng 500 mét) thì B và C chuyển sang nhà mới ở và di dời 05 khẩu súng, 192 viên đạn, 01 quả lựu đạn đến khu vực nhà mới chôn giấu dưới đất. Để súng đạn không hư, sét gỉ, B và C lấy súng, đạn đặt trong khúc gỗ rỗng ruột, rồi cất giấu cặp vách nhà. Tại đây, B và C đã nhiều lần lấy 05 khẩu súng ra để lau chùi, vệ sinh tại phòng ngủ của Huỳnh Thị Ngọc G1, Nguyễn Thị Linda Trang Đ1 (cũng là người làm của H) theo yêu cầu của H. Ngoài ra, B còn khai H có nói cho B biết 02 khẩu súng K54 là do H được người nam tên Mắt M dẫn đến tỉnh Đồng Nai mua với giá 70.000.000 đồng/01 khẩu vào tháng 9/2022, sau đó có một khẩu súng bị hư nên H yêu cầu B dẫn M1 Mùa vào phòng của H lấy khẩu súng để sửa. Đối với khẩu súng hoa cải, B trực tiếp thấy H mua của người tên B2 (không rõ họ tên, địa chỉ), việc mua bán được thực hiện bên trong nhà của H.

Riêng Hồ Quốc H không thừa nhận hành vi mua bán, tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng. Bị cáo khai hoàn toàn không biết số vũ khí mà cơ quan thu giữ tại nơi ở của bị cáo là của ai, nhà của bị cáo chỉ do bị cáo và một người phụ nữ sống chung như vợ chồng ngoài ra không còn người lạ nào khác.

Tại phiên tòa, các bị cáo C, B vẫn khai nhận hành vi đã thực hiện như tại giai đoạn điều tra như nội dung đã nêu trên; riêng bị cáo H vẫn không thay đổi lời khai.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Thái Phú V, Ngô Minh T6, Nguyễn Minh N3, Huỳnh Thị Ngọc G1 trình bày: đều là người làm thuê và sinh sống tại nhà của H cùng với B và C. Từ khoảng tháng 01/2023 đến ngày 01/4/2023, đã nhiều lần thấy B và C vệ sinh súng tại phòng ngủ của B và C. Khi Công an khám xét nhà của H, thu giữ nhiều súng và đạn.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Duy T5 trình bày: Khoảng tháng 8/2022, T5 được Thái Phú V giới thiệu đến làm thuê cho H. Đến khoảng tháng 02/2023, B giao cho T5 01 khẩu súng dạng ổ quay được gói bên ngoài bằng tấm vải màu xanh, kêu T5 đi cất giấu dưới ghế đá phía sau nhà mát, không nói rõ là súng gì. Khoảng 07 ngày sau, C gặp T5 hỏi khẩu súng thì T5 chỉ chỗ giấu súng cho C biết. Đến ngày 01/4/2023, Công an khám xét nhà của H, thu giữ khẩu súng nêu trên và 04 khẩu súng khác. Ngoài ra, T5 còn khai nhận hình ảnh người cầm súng được trích xuất từ camera trong nhà của H vào ngày 19/3/2023 là T5, người đứng gần đó là Nguyễn Trường G2, súng mà T5 cầm là súng nhựa do G2 mua, không phải súng bị Công an thu giữ khi khám xét nhà của H.

Người làm chứng có mặt khai phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt:

- Áp dụng điểm g, h khoản 2 Điều 304, điểm o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Quốc H 09 năm đến 10 năm tù Về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 304, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc B từ 07 năm tù đến 08 năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 304, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Trí C từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dng”.

Về Hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung. Về Biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

- 01 khúc gỗ hình trụ, bên trong rỗng, được trán xi măng, cao 31 cm, đường kính 36cm, có nắp đậy.

- 01 khúc gỗ hình trụ, bên trong rỗng, được trán xi măng, cao 31cm, đường kính 36cm, không có nắp đậy.

- 01 mảnh vải màu xanh, hoa văn màu trắng vàng đỏ.

- 01 mảnh vải màu xanh.

- 01 túi vải màu đen, nhãn hiệu GUCI, sọc xanh đỏ.

- 01 bao thuốc lá nhãn hiệu YETT.

- 02 vỏ súng bằng nhựa, màu đen.

- 02 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 28x4,8cm; cán bằng kim loại tròn, dài 1,1m, đường kính 03cm.

- 02 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 44x7cm; cán bằng kim loại tròn, dài 41 cm, đường kính 04cm.

- 01 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 49x10,8cm; cán bằng kim loại tròn, dài 49cm, đường kính 03cm.

- 01 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 32x05cm; cán bằng gỗ, kích thước 12,6x6,4cm.

- 01 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, màu trắng, sắc, nhọn, kích thước 18,4x04cm; cán bằng kim loại ốp gỗ, kích thước 12,6x4,6cm.

- 01 dao bầu bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 23x08cm; cán tròn bằng kim loại, đường kính 3,4cm.

- 01 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại màu trắng, sắc, nhọn, kích thước 17,8x3,4cm; cán bằng kim loại màu trắng, kích thước 12x1,4cm.

- 01 dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại màu trắng, tròn, sắc (đĩa thắng xe mô tô), đường kính 26cm; cán bằng kim loại màu trắng, tròn, dài 1,47m, đường kính 2,2cm.

- 01 lưỡi dao tự chế bằng kim loại, sắc nhọn, hình cung, kích thước 21,4x11,2cm (đĩa thắng xe mô tô).

- 01 tay nắm bằng kim loại màu trắng, kích thước 12,5x7cm.

- 01 tay nắm bằng kim loại màu vàng, kích thước 12,5x7cm.

- 01 đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 45cm, đường kính 2,7cm.

- 01 đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 49cm, đường kính 2,7cm.

- 01 đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 51cm, đường kính 2,7cm.

- 01 gậy kim loại, tròn, màu đen, dài 70cm, đường 5,5cm.

- 03 bình xịt hơi cay.

- Trả lại cho Nguyễn Trí C 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7, màu đen, số Imeil: 86604206000886, Imei 2: 86604248160886, kèm theo sim số 0776578xxx, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Quốc B 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu đỏ, số Emell: 356555103597152, Emel 2: 356555103745827, kèm theo sim số 0358085xxx, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Minh N3 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S8, màu xanh, số kiểu máy: SM-G950N, số seri: R39J700MSL, số Imel: 356358082289978, đã qua sử dụng.

Đối với:

- 01 khẩu súng ngắn, bằng kim loại, màu đen, ghi số hiệu 20012499 (súng quân dụng K54).

- 01 khẩu súng ngắn, bằng kim loại, màu đen, ghi số hiệu 19015224 (súng quân dụng K54).

- 01 khẩu súng ngắn, bằng kim loại, màu đen, ghi số hiệu 7867 (súng quân dụng K59).

- 01 khẩu súng ngắn, bằng kim loại, màu đen, ghi số hiệu EL113- 21020277 (Công cụ hỗ trợ).

- 01 khẩu súng tự chế bằng kim loại màu đen, ốp báng súng bằng gỗ (súng bắn đạn hoa cải).

- 61 viên đạn cỡ 7,62 x 25mm, đít đạn ký hiệu S&B 7.62x25.

- 34 viên đạn cỡ 9 x 18mm, đít đạn ký hiệu S&B 14 9x18.

- 50 viên đạn cỡ 9 x 18mm, đít đạn ký hiệu 9mm M S&B.

- 05 viên đạn tự chế dạng hoa cải.

- 06 viên đạn cao su cỡ 9x22mm, đít đạn ký hiệu YAS GLD PAK 9mm.

- 01 vỏ đạn cỡ 9x22mm, đít đạn ký hiệu YAS GLD PAK 9mm.

- 01 lựu đạn tập, ký hiệu LĐ-01-TAP-DQX55-14.

Giao cho Ban Chỉ huy quân sự tỉnh A quản lý và thực hiện việc xử lý theo quyết định của Bản án.

Luật sư Lại Văn G bào chữa cho của bị cáo Hồ Quốc H: Luật sư không tranh luận về tội danh đối với bị cáo H. Việc cho rằng bị cáo H chủ mưu cầm đầu đề nghị HĐXX quan tâm xem xét, bởi vì C khai không biết H, H không thừa nhận giao súng cho C, B nên không có cơ sở xác định H giao súng cho C. Từ đó cho thấy việc quy kết Hà phạm vào điểm o khoản 1 Điều 52 là chưa đủ căn cứ như nhận định trên. Đối với tài sản khác thu giữ tại nhà H đề nghị HĐXX xem xét trả lại cho bị cáo do không liên quan đến việc phạm tội. Do đó việc đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 năm đến 10 năm tù là quá nghiêm khắc nên đề nghị HĐXX cân nhắc mức án phạt đối với bị cáo.

Luật sư Hồ Hoàng P bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trí C: không tranh luận về tội danh và hành vi đối với bị cáo C. Việc truy tố bị cáo về hành vi trên là phù hợp pháp luật. Đề nghị HĐXX quan tâm xem xét, bị cáo phạm tội trong thời gian chưa đủ 18 tuổi, nhận thức chưa chín chắn, học vấn thấp nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Bị cáo lại thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình, chỉ đóng vai trò đồng phạm giúp sức trong vụ án, đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Do đó đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất án phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

Trợ giúp viên pháp lý Phan Văn H2 bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc B: thống nhất về tội danh và hành vi đối với bị cáo B. Đề nghị HĐXX quan tâm xem xét cho bị cáo: xuất thân từ thành phần nhân dân lao động nghèo, sống bằng nghề làm thuê mướn. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; gia đình bị cáo thực sự khó khăn, cha mất sớm, mẹ bệnh tật, con bị cáo mới sinh còn rất nhỏ. Tại cơ quan giam giữ bị cáo đã chấp hành tốt nội quy của trại. Do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất án phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị và không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trong phần đối đáp một lần nữa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề nghị tại bản luận tội nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trí C và Nguyễn Quốc B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án.

Riêng Hồ Quốc H mặc dù không thừa nhận số vũ khí thu giữ tại nơi ở của bị cáo là của H nhưng căn cứ vào lời khai của bị cáo B (cũng là anh em cô cậu với bị cáo) và lời khai bị cáo C đều khẳng định số vũ khí thu được tại nhà của H là của bị cáo H, cùng lời khai của các người có liên quan khác; đồng thời H là một đối tượng hình sự “cộm cán” tại địa bàn, có rất nhiều tiền án và nổi tiếng hung hãn, ngang tàng nên B và C đều không thể dám tự ý mang súng về nhà H cất giấu trong một thời gian dài được; cũng như quá trình điều tra ban đầu H khai trong nơi ở của H không có người lạ nào ngoài H và một người phụ nữ sống như vợ chồng với bị cáo nhưng thực chất bị cáo chứa rất nhiều đối tượng thanh niên khác để thực hiện hành vi phạm pháp khác, đã thể hiện bị cáo cố tình không khai báo, quanh co chối tội. Với những chứng cứ như đã phân tích trên có đủ căn cứ để kết luận:

Hồ Quốc H là đối tượng có nhiều tiền án thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 04 khẩu súng và 172 viên đạn là vũ khí quân dụng; sau đó H đưa 04 khẩu súng cùng 172 viên đạn cho Nguyễn Quốc B và Nguyễn Trí C cất giấu, bảo quản tại nơi ở của H, thuộc khóm Đ, thị trấn N, huyện T, tỉnh A. Trong thời gian cất giấu, bảo quản, Nguyễn Trí C sử dụng 03 khẩu súng quân dụng (01 khẩu súng bắn đạn hoa cải và 02 khẩu súng K54) để bắn phát nổ; còn Nguyễn Quốc B sử dụng 01 khẩu súng quân dụng (bắn đạn hoa cải) để bắn phát nổ.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Hồ Quốc H (T), Nguyễn Quốc B (B) và Nguyễn Trí C (Cường Nhỏ) phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng". Cụ thể:

- Hồ Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, quy định tại điểm g, h khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

- Nguyễn Trí C và Nguyễn Quốc B, phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt từ 05 năm đến 12 năm, có khung hình phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn công cộng, vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng; đe dọa đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần thiết phải xử phạt nghiêm, tương xứng với tính chất mức độ của từng bị cáo, để cải tạo, giáo dục các bị cáo biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội.

Hội đồng xét xử xét thấy:

[4.1] Bị cáo Hồ Quốc H là đối tượng có nhân thân rất xấu, nhiều tiền án và là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, thế nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt đã không chịu hoàn lương mà ngược lại, khi về địa phương lại quy tụ các thanh niên hư hỏng khác để thực hiện tệ nạn cờ bạc, khi phát sinh mâu thuẫn trong việc làm ăn bị cáo đã mua trái phép 04 khẩu súng và 172 viên đạn là vũ khí quân dụng đưa về giao cho đàn em là Nguyễn Quốc B và Nguyễn Trí C cất giấu, bảo quản tại nơi ở của bị cáo nhằm giải quyết mâu thuẫn dẫn đến việc phạm tội. Như vậy, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, với động cơ để sử dụng giải quyết mâu thuẫn với người khác trong công việc làm ăn. Đây là vụ án đồng phạm, bị cáo giữ vai trò là người chủ mưu; toàn bộ số vũ khí là của bị cáo, sau khi bị phát hiện đã không thành khẩn đã thể hiện sự xem thường pháp luật. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm chính vì có vai trò cao hơn hẳn so với các bị cáo khác.

Về tình tiết tăng nặng: Do bị cáo lôi kéo bị cáo Nguyễn Trí C vào cùng thực hiện hành vi phạm tội khi C là người dưới 18 tuổi, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ.

[4.2] Bị cáo Nguyễn Quốc B và Nguyễn Trí C là người giúp sức tích cực cho bị cáo H trong việc thực hiện hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; cả hai cùng thực hiện hành vi chôn giấu số vũ khí và lau chùi, bảo quản số súng quân dụng nên tính chất mức độ và vai trò như nhau. Tuy nhiên ngoài việc tàng trữ vũ khí thì các bị cáo B và C còn có thêm hành vi phạm tội là “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, trong đó B bắn nổ 01 lần còn C bắn nổ 3 lần ở 3 khoảng thời gian khác nhau nên tính chất mức độ nguy hiểm của C trong việc sử dụng trái phép vũ khí cao hơn B.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo B đã bị kết án về tội “cố ý gây thương tích” nên phạm tội lần này là “tái phạm”, thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo C thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo C và B đều thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải. Ngoài ra, bị cáo B đã tích cực hợp tác với cơ quan Điều tra để phát hiện tội phạm và được cơ quan điều tra có văn bản đề nghị giảm hình phạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (đối với B) và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (đối với cả hai bị cáo c, B).

Riêng bị cáo C khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi nên cần áp dụng những quy định đối với người dưới 18 tuổi tại Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 304 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên HĐXX xét thấy các bị cáo đều có hoàn cảnh không có thu nhập ổn định và cận nghèo, không hưởng lợi ích kinh tế từ hành vi phạm tội, hình phạt chính cũng đã tương xứng nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Đối với:

- Người tên B2 không rõ lai lịch và Nguyễn Thiên Q (Mắt M) có hành vi mua bán súng với Hồ Quốc H. Đến nay chưa xác định được nơi cư trú và chưa làm việc được. Ngoài lời khai của Nguyễn Quốc B, không có tài liệu, chứng cứ khác nên Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

- Việc Nguyễn Trí C khai gặp Hồ Quốc H xin bắn thử súng nhưng H không thừa nhận, ngoài lời khai của C ra không có chứng cứ nào để chứng minh nên chưa đủ chứng cứ quy kết H về hành vi “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

- Hồ Quốc H yêu cầu Nguyễn Trí C chế tạo, tàng trữ 11 cây dao tự chế, 03 đoạn kim loại, 01 gậy kim loại và cùng với Nguyễn Quốc Bảo tàng t 01 khẩu súng, 11 viên đạn thuộc nhóm công cụ hỗ trợ. Do H, C và B chưa bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về một trong các hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng tác dụng tương tự, nên Cơ quan An ninh điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi này là có căn cứ.

- Qua trích xuất camera tại nhà của H, có hình ảnh của Nguyễn Duy T5 cầm 01 khẩu súng ngắn, T5 khai khẩu súng trên là súng nhựa, ngoài lời khai của T5 không có tài liệu, chứng cứ khác, không thu giữ được khẩu súng nên Cơ quan An ninh điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

- Quá trình điều tra, Nguyễn Duy T5 khai nhận được Nguyễn Quốc B giao 01 khẩu súng dạng ổ quay được gói bên ngoài bằng tấm vải màu xanh, kêu T5 đi cất giấu dưới ghế đá phía sau nhà mát của H, sau đó T5 có chỉ cho C chỗ cất giấu súng. B và C khai nhận không có sự việc giao súng cho T5 như T5 khai, ngoài lời khai của T5 không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh nên Cơ quan An ninh điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

- Nguyễn Duy T5, Thái Phú V, Ngô Minh T6, Nguyễn Minh N3, Huỳnh Thị Ngọc G1 thấy C và Bảo vệ sinh súng tại nhà của H nhung không trình báo Cơ quan Công an. Tuy nhiên, bản thân những người này không biết rõ nguồn gốc súng, mục đích C, B cất giấu, bảo quản súng, không xác định được có phải là vũ khí quân dụng hay không, nên Cơ quan An ninh điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

[7] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra có thu giữ các vật chứng gồm:

- 05 (năm) khẩu súng (trong đó có 02 (hai) khẩu súng quân dụng K54 cỡ nòng 7,62mm, 01 (một) khẩu súng quân dụng K59 cỡ nòng 9mm, 01 khẩu súng công cụ hỗ trợ cỡ 9mm và 01 (một) khẩu súng tự chế bằng kim loại màu đen một nòng nhẫn (dạng súng calip)); 61 (sáu mươi một) viên đạn cỡ (7,62x25)mm, đít đạn cùng ký hiệu S&B 7,62x25; 84 (tám mươi bốn) viên đạn cỡ (9x18)mm (trong đó 34 viên đít đạn ký hiệu S&B 14 9x18 và 50 viên đít đạn ký hiệu 9mm M S&B); 05 (năm) viên đạn tự chế (dạng đạn hoa cải); 06 (sáu) viên đạn cao su cỡ (9x22)mm, đít cùng ký hiệu YAS GLD PAK 9mm; 01 (một) vỏ đạn cỡ (9x22)mm, đít đạn ký hiệu YAS GLD PAK 9mm; 01 (một) quả lựu đạn tập, ký hiệu LĐ-01-TAP-DQ X55-14. Tất cả được đóng gói trong thùng giấy niêm phong đóng dấu tròn đỏ của Phân viện khoa học hình sự tại TP ., chữ ký của ông Đô Hồng M2, Nguyễn Phương N4. Đây là vũ khí quân dụng và công cụ hỗ trợ nên tịch thu giao cho Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh A quản lý.

(Vật chứng trên đã được giao cho Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh A theo Biên bản bàn giao ngày 13/12/2023 giữa Cục Thi hành án dân sự tỉnh A và Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh A) - 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, model: Redmi N, IMEI 1: 86604206000886 và số EMEI 2: 86604248160886, trong điện thoại có gắn 01 thẻ sim số 0776578xxx (đã qua sử dụng). Đây là tài sản của Nguyễn Trí C, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, model: Iphone 11, có số IMEI 1: 356555103597152 và số IMEI 2: 356555103745827, trong điện thoại có gắn 01 thẻ sim số 0358085xxx (đã qua sử dụng). Đây là tài sản của Nguyễn Quốc B, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Hai điện thoại trên được niêm phong trong phong bì màu trắng, bên ngoài có ghi “vụ: 280/KL-KTHS (KTSĐT-GT), ngày 30 tháng 06 năm 2023 (02 điện thoại gửi giám định)”, có chữ ký, chữ viết của ông Giáp Thanh T7, Trần Minh Đ2 và dấu tròn màu đỏ của Phòng K1- Công an tỉnh A..

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8, màu xanh, số kiểu máy: SM-G950N, số seri: R39J700MSL, IMEI: 356358082289978 (phía trước và phía sau điện thoại có nhiều vết nứt, điện thoại đã qua sử dụng), được niêm phong trong phong bì màu trắng, dán kín, phía trên miệng niêm phong có dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, có chữ ký và ghi tên của ông Vũ Tuấn t1, Huỳnh Đình K, Nguyễn Minh N3. Bên ngoài có dòng chữ “Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8, màu xanh” liên quan trong vụ “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” xảy ra ngày 01/4/2023 tại khóm Đ, TT. N, huyện T, A. Đây là tài sản của Nguyễn Minh N3, không liên quan đến việc phạm tội nên trả cho N3.

- 01 (một) đầu ghi hình kỹ thuật số nhãn hiệu HIKVISON, Model: DS 7802NI trong đĩa đầu ghi có lắp 01 HDD loại 1TB được niêm phong trong phong bì màu trắng, bên ngoài có ghi “Vụ: 169/KL-KTHS (KTSĐT-GT) ngày 30 tháng 06 năm 2023 (Đầu ghi gửi giám định)”, có chữ ký, chữ viết của ông Nguyễn Phước T8, Trần Minh Đ2. Đây là tài sản của Hồ Quốc H nên trả lại cho bị cáo H.

Các vật chứng còn lại không có giá trị sử dụng sẽ bị tịch thu, tiêu hủy, gồm:

- 01 (một) khúc gỗ hình trụ, bên trong rỗng, được tráng xi măng, cao 31cm, đường kính 36cm, không có nắp đậy.

- 01 (một) khúc gỗ hình trụ, bên trong rỗng, được tráng xi măng, cao 31 cm, đường kính 36cm, có nắp đậy.

- 01 (một) mảnh vải màu xanh, hoa văn màu trắng vàng đỏ.

- 04 (bốn) mảnh vải màu xanh - 01 (một) túi vài màu đen, nhãn hiệu GUCI, sọc xanh đỏ.

- 01 (một) bao thuốc lá nhãn hiệu YETT - 02 (hai) vỏ súng bằng nhựa, màu đen - 02 (hai) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 28x4,8cm; cán bằng kim loại tròn, dài 1,1m, đường kính 03cm.

- 02 (hai) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 44x7cm; cán bằng kim loại tròn, dài 41 cm, đường kính 04cm. 13-01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 49x10,8cm; cán bằng kim loại, tròn, dài 49cm, đường kính 03cm.

- 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 32x05cm; cán bằng gỗ, kích thước 12,6x4,6cm.

- 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, màu trắng, sắc, nhọn, kích thước 18,4x04cm; cán bằng kim loại ốp gỗ, kích thước 12,6x6,4cm.

- 01 (một) dao bầu bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 23x08cm, cán tròn bằng kim loại, đường kính 3,4cm.

- 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại màu trắng, sắc, nhọn, kích thước 17,8x3,4cm; cán bằng kim loại màu trắng, kích thước 12x1,4cm.

- 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại màu trắng, tròn, sắc (đĩa thắng xe mô tô), đường kích 26cm, cán bằng kim loại màu trắng, tròn, dài 1,47m, đường kính 2,2cm.

- 01 (một) lưỡi dao tự chế bằng kim loại, sắc nhọn, hình cung, kích thước 21,4x11,2 (đĩa thắng xe mô tô).

- 01 (một) tay nắm bằng kim loại màu trắng, kích thước 12,5x7cm - 01 (một) tay nắm bằng kim loại màu vàng, kích thước 12,5x7cm - 01 (một) đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 45cm, đường kính 2,7cm23- 01 (một) đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 49cm, đường kính 2,7cm - 01 (một) đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 51cm, đường kính 2,7cm.

- 01 (một) gậy kim loại, tròn, màu đen, dài 70cm, đường 5,5cm.

- 03 (ba) bình xịt hơi cay.

(Các vật chứng trên đã được giao cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh A theo Biên bản bàn giao ngày 10/11/2023 giữa Cơ quan An ninh đều tra Công an tỉnh A và Cục Thi hành án dân sự tỉnh A) [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hồ Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

- Nguyễn Trí C và Nguyễn Quốc B, phạm tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

Căn cứ điểm điểm g, h khoản 2 Điều 304; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Hồ Quốc H (T1) 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (01/4/2023).

Căn cứ điểm điểm g khoản 2 Điều 304; điểm s, t khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Quốc B (Bảo Bin) 06 (sáu) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (13/5/2023).

Căn cứ điểm điểm g khoản 2 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Trí C 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (01/4/2023).

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Giao Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh A quản lý: 05 (năm) khẩu súng (trong đó có 02 (hai) khẩu súng quân dụng K54 cỡ nòng 7,62mm, 01 (một) khẩu súng quân dụng K59 cỡ nòng 9mm, 01 khẩu súng công cụ hỗ trợ cỡ 9mm và 01 (một) khẩu súng tự chế bằng kim loại màu đen một nòng nhẫn (dạng súng calip)); 61 (sáu mươi một) viên đạn cỡ (7,62x25)mm, đít đạn cùng ký hiệu S&B 7,62x25; 84 (tám mươi bốn) viên đạn cỡ (9xl8)mm (trong đó 34 viên đít đạn ký hiệu S&B 14 9x18 và 50 viên đít đạn ký hiệu 9mm M S&B); 05 (năm) viên đạn tự chế (dạng đạn hoa cải); 06 (sáu) viên đạn cao su cỡ (9x22)mm, đít cùng ký hiệu YAS GLD PAK 9mm; 01 (một) vỏ đạn cỡ (9x22)mm, đít đạn ký hiệu YAS GLD PAK 9mm; 01 (một) quả lựu đạn tập, ký hiệu LĐ-01-TAP-DQ X55-14 (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2023 giữa Cục Thi hành án dân sự tỉnh A và Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh A).

- Trả cho Nguyễn Trí C 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi, model: Redmi N, IMEI 1: 86604206000886 và số EMEI 2: 86604248160886, trong điện thoại có gắn 01 thẻ sim số 0776578xxx (đã qua sử dụng);

- Trả cho Nguyễn Quốc B 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, model: Iphone 11, có số IMEI 1: 356555103597152 và số IMEI 2: 356555103745827, trong điện thoại có gắn 01 thẻ sim số 0358085xxx (đã qua sử dụng).

- Trả cho Nguyễn Minh N3 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8, màu xanh, số kiểu máy: SM-G950N, số seri: R39J700MSL, IMEI: 356358082289978 (phía trước và phía sau điện thoại có nhiều vết nứt, điện thoại đã qua sử dụng).

- Trả cho Hồ Quốc H 01 (một) đầu ghi hình kỹ thuật số nhãn hiệu HIKVISON, Model: DS 7802NI trong đĩa đau ghi có lắp 01 HDD loại 1TB được niêm phong trong phong bì màu trắng, bên ngoài có ghi “Vụ: 169/KL-KTHS (KTSDT-GT) ngày 30 tháng 06 năm 2023 (Đầu ghi gửi giám định)”, có chữ ký, chữ viết của ông Nguyễn Phước T8, Trần Minh Đ2.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng theo Biên bản bàn giao ngày 10/11/2023 giữa Cơ quan An ninh đều tra Công an tỉnh A và Cục Thi hành án dân sự tỉnh A, gồm: 01 (một) khúc gỗ hình trụ, bên trong rỗng, được tráng xi măng, cao 31cm, đường kính 36cm, không có nắp đậy; 01 (một) khúc gỗ hình trụ, bên trong rỗng, được tráng xi măng, cao 31 cm, đường kính 36cm, có nắp đậy; 01 (một) mảnh vải màu xanh, hoa văn màu trắng vàng đỏ; 01 (một) mảnh vải màu xanh; 01 (một) túi vài màu đen, nhãn hiệu GUCI, sọc xanh đỏ; 01 (một) bao thuốc lá nhãn hiệu YETT; 02 (hai) vỏ súng bằng nhựa, màu đen; 02 (hai) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 28x4,8cm; cán bằng kim loại tròn, dài 1,1m, đường kính 03cm; 02 (hai) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 44x7cm; cán bằng kim loại tròn, dài 41 cm, đường kính 04cm; 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 49x10,8cm, cán bằng kim loại, tròn, dài 49cm, đường kính 03cm; 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 32x05cm; cán bằng gỗ, kích thước 12,6x4,6cm; 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, màu trắng, sắc, nhọn, kích thước 18,4x04cm; cán bằng kim loại ốp gỗ, kích thước 12,6x6,4cm; 01 (một) dao bầu bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại, sắc, nhọn, kích thước 23x08cm, cán tròn bằng kim loại, đường kính 3,4cm; 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại màu trắng, sắc, nhọn, kích thước 17,8x3,4cm, cán bằng kim loại màu trắng, kích thước 12x1,4cm; 01 (một) dao tự chế bằng kim loại, lưỡi bằng kim loại màu trắng, tròn, sắc (đĩa thắng xe mô tô), đường kích 26cm, cán bằng kim loại màu trắng, tròn, dài 1,47m, đường kính 2,2cm; 01 (một) lưỡi dao tự chế bằng kim loại, sắc nhọn, hình cung, kích thước 21,4x11,2 (đĩa thắng xe mô tô); 01 (một) tay nắm bằng kim loại màu trắng, kích thước 12,5x7cm; 01 (một) tay nắm bằng kim loại màu vàng, kích thước 12,5x7cm; 01 (một) đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 45cm, đường kính 2,7cm23- 01 (một) đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 49cm, đường kính 2,7cm; 01 (một) đoạn kim loại tròn, màu trắng, một đầu được mài nhọn, chiều dài 51cm, đường kính 2,7cm; 01 (một) gậy kim loại, tròn, màu đen, dài 70cm, đường 5,5cm; 03 (ba) bình xịt hơi cay.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo H, B và C, mỗi người phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người được quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về