Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 77/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn L, sinh năm 1995 tại xã C, huyện Q, tỉnh S; nơi cư trú: Bản P, xã C, huyện Q, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn D và bà Tòng Thị H; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/4/2023, đến ngày 25/4/2023 thì bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh H. Có mặt tại phiên toà.

- Người chứng kiến:

+ Ông Lại Văn D, sinh năm 1971. Vắng mặt;

+ Chị Lò Thị N, sinh năm 2006. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 3/2023 Lường Văn L đến thành phố C, tỉnh H để tìm việc làm và có thuê trọ tại tầng 02 của nhà số 69, đường B, khu dân cư B, phường C, thành phố C, tỉnh H của ông Lại Văn D. L hẹn với ông D đến ngày 20/4/2023 sẽ làm hợp đồng thuê nhà và làm thủ tục đăng ký tạm trú. Khi đến ở trọ, L có mang theo 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay, 28 viên đạn thể thao, 01 vật hình cầu - hình quả lựu đạn (L khai nguồn gốc do mua của 01 người đàn ông không quen biết ở Trung Quốc từ năm 2020). Trong thời gian đến sống tại đây L có để súng, 28 viên đạn và 01 vật hình cầu – hình quả lựu đạn ở trong 01 ba lô giả da màu đen và cất ba lô tại khu vực giữa cầu thang tầng 02 lên tầng 3 của nhà trọ. Đến khoảng 09 giờ 45 phút, ngày 16/4/2023, khi L đang ở cùng bạn gái là chị Lò Thị N tại phòng trọ thì bị lực lượng Công an thành phố Cphối hợp với Công an phường C, thành phố Cđến kiểm tra lưu trú, phát hiện, lập biên bản thu giữ tại vị trí giữa cầu thang tầng 02 lên tầng 03 của nhà trọ 01 ba lô giả da màu đen, bên trong có 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay, phần thân súng làm bằng kim loại, dài 14 cm, tay cầm súng làm bằng gỗ dài 7,8cm, nòng súng dài 05cm, đường kính 1,3cm; 28 viên đạn thể thao; 01 vật hình cầu - hình quả lựu đạn.

Tại Bản kết luận giám định số 2859/KLGĐ - KTHS ngày 20/4/2023 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Khẩu súng gửi giám định là khẩu súng tự chế kiểu ổ quay bắn đạn cỡ (5,6 x 15,5) mm thuộc vũ khí quân dụng, hiện tại còn sử dụng để bắn được; 28 viên đạn gửi giám định là đạn thể thao cỡ (5,6 x 15,5) mm, không phải vũ khí quân dụng và sử dụng lắp, bắn được cho khẩu súng kiểu ổ quay nêu trên. Khi sử dụng khẩu súng, đạn gửi giám định bắn vào cơ thể người gây chết hoặc bị thương.

Tại Bản kết luận giám định số 2866/KLGĐ - KTHS ngày 05/5/2023 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: 01 vật hình cầu, vỏ bằng kim loại sơn màu vàng, đường kính 5,3 cm, chiều dài 8,5 cm là mô hình lựu đạn dùng trong huấn luyện quân sự, mô hình lựu đạn này không có tính năng tác dụng gây nổ vì không có kíp nổ và thuốc nổ. Đối chiếu với mục a khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ sửa đổi 2019 của Quốc hội sửa đổi bổ sung một số điều của Luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì mô hình lựu đạn trên không thuộc vũ khí quân dụng.

Tại bản cáo trạng số 56/CT-VKS-CL ngày 13/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H đã truy tố Lường Văn L về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên, thừa nhận việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H đối với mình là đúng và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ctrình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lường Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Lường Văn L từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/4/2023. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về xử lý vật chứng: Tịch thu giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh H: 01 phong bì niêm phong, bên trong chứa 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay, phần thân súng làm bằng kim loại, tay cầm súng làm bằng gỗ dài 7,8cm, nòng súng dài 05cm, đường kính 1,3cm để xử lý theo thẩm quyền. Tịch thu cho tiêu hủy: 01 hộp dán kín niêm phong, bên trong chứa 01 vật hình cầu vỏ bằng kim loại sơn màu vàng, đường kính 5,3cm, chiều dài 8,5cm; 01 ba lô giả da màu đen, hai quai phía sau, mặt trước có dòng chữ Forever love, kích thước (23 x 24) cm.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, phù hợp với các biên bản bắt người phạm tội quả tang, các kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng cuối tháng 3/2023 đến ngày 16/4/2023, Lường Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay, phần thân súng làm bằng kim loại, dài 14 cm, tay cầm súng làm bằng gỗ dài 7,8cm, nòng súng dài 05cm, đường kính 1,3cm (thuộc vũ khí quân dụng), 28 viên đạn thể thao và 01 vật hình cầu - hình quả lựu đạn ở trong 01 ba lô giả da màu đen tại nơi ở của Lả ở tầng 02, nhà số 69, đường B, khu dân cư B, phường C, thành phố C, tỉnh H thì bị lực lượng Công an thành phố Cphối hợp với Công an phường C, thành phố Cđến kiểm tra, phát hiện, lập biên bản thu giữ vật chứng vào hồi 09 giờ 45 phút ngày 16/4/2023.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý Nhà nước về vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, đe dọa an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và gây bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo thực hiện hành vi cất giấu trái phép 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay, phần thân súng làm bằng kim loại, dài 14 cm, tay cầm súng làm bằng gỗ dài 7,8cm, nòng súng dài 05cm, đường kính 1,3cm; 28 viên đạn thể thao và 01 vật hình cầu - hình quả lựu đạn với mục đích phòng thân. Căn cứ vào Luật số 50/2019/QH14 của Quốc hội sửa đổi bổ sung một số điều của luật quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày 25/11/2019; Nghị quyết 03/2022/NQ - HĐTP ngày 09/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Bản kết luận giám định số 2859/KLGĐ - KTHS ngày 20/4/2023 và Bản kết luận giám định số 2866/KLGĐ - KTHS ngày 05/5/2023 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, xác định 01 khẩu súng mà Lả cất giấu là vũ khí quân dụng, còn 28 viên đạn và 01 vật hình cầu - hình quả lựu đạn không phải là vũ khí quân dụng. Do vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự. Do đó, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh H đối với bị cáo như trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận tội nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã thực hiện để trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo cất giấu trái phép vũ khí quân dụng không nhằm mục đích bán lại kiếm lời nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay thuộc vũ khí quân dụng, hiện tại còn sử dụng để bắn được, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh H xử lý theo thẩm quyền theo quy định tại Nghị định số 70/2013/NĐ-CP ngày 02/7/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ.

Đối với 01 vật hình cầu, vỏ bằng kim loại là mô hình lựu đạn dùng trong huấn luyện quân sự nhưng không có tính năng tác dụng gây nổ vì không có kíp nổ và thuốc nổ, không thuộc vũ khí quân dụng; 01 ba lô giả da màu đen, hai quai phía sau, mặt trước có dòng chữ Forever love là tài sản của bị cáo, bị cáo xác định ba lô đã cũ, không còn giá trị sử dụng. Do vậy cần tịch thu cho tiêu huỷ theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 28 viên đạn là đạn thể thao, không phải vũ khí quân dụng, đã được bắn thử hết khi giám định nên không đặt ra xem xét.

[8] Đối với hành vi tàng trữ 28 viên đạn thể thao của Lường Văn L đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh H xử phạt hành chính theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1268/QĐ - XPHC ngày 30/6/2023 nên không đặt ra xem xét.

Đối với việc L khai tháng 9/2019 L có hành vi xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, ngoài lời khai của L thì không có tài liệu nào liên quan để xác minh làm rõ. Cơ quan Điều tra căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính xác định thời hiệu xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xuất cảnh trái phép đã hết thời hiệu, không đặt ra xử lý, do vậy không xem xét.

Ông Lại Văn D và chị Lò Thị N không biết việc L cất giấu trái phép súng, đạn và mô hình lựu đạn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ckhông có căn cứ để xử lý nên không xem xét.

Đối với người đàn ông người Trung Quốc mà L khai đã bán súng, đạn, mô hình lựu đạn cho L: Do L không biết rõ nhân thân lý lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xác minh nên không xem xét.

[9] Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, yêu cầu làm rõ việc Lường Văn L thuê toàn bộ ngôi nhà của ông Lại Văn D hay chỉ thuê 01 phòng trong nhà của ông D; yêu cầu tiến hành khám xét nơi ở của Lường Văn L theo quy định tại khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, Viện kiểm sát không nhất trí với yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án. Ông Lại Văn D đã cung cấp thông tin cho Tòa án về việc Lường Văn L thuê tầng 02 nhà số 69, đường B, khu dân cư B, phường C, thành phố C, tỉnh H.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị định số 70/2013/NĐ-CP ngày 02/7/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý kho vật chứng ban hành kèm theo Nghị định số 18/2002/NĐ-CP ngày 18/02/2002 của Chính phủ; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

- Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Lường Văn L 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/4/2023.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu, giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh H xử lý theo thẩm quyền: 01 phong bì niêm phong, mặt trước có chữ: Bộ Công an Viện khoa học hình sự, mặt sau có 05 dấu đỏ giáp lai của Viện khoa học hình sự và 04 chữ ký niêm phong mẫu, bên trong chứa 01 khẩu súng tự chế dạng côn kiểu ổ quay, phần thân súng làm bằng kim loại, tay cầm súng làm bằng gỗ dài 7,8 cm, nòng súng dài 05 cm, đường kính 1,3 cm. Tịch thu cho tiêu hủy: 01 hộp dán kín niêm phong, có chữ ký của giám định viên Ngô Tiến H dấu đỏ của công an phường Cộng Hòa, chữ ký của điều tra viên Đỗ Văn P, bên trong chứa 01 vật hình cầu vỏ bằng kim loại sơn màu vàng, đường kính 5,3 cm, chiều dài 8,5 cm; 01 ba lô giả da màu đen, hai quai phía sau, mặt trước có dòng chữ Forever love, kích thước (23 x 24) cm.

(Vật chứng hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh H quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/7/2023 giữa Công an tỉnh H và Chi cục thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh H).

- Về án phí: Buộc bị cáo Lường Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 77/2023/HS-ST

Số hiệu:77/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về