Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 39/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 189/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số số: 16/2020/HSST-QĐ ngày 29 tháng 01 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử số: 45/TB-TA ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Vũ Tuấn L, sinh ngày 02 tháng 7 năm 1993 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 80/25 đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn L1 và bà Nguyễn Thị L2; chưa có vợ con; tiền án: Tại Bản án số 11/2017/HSST ngày 30/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T xử 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội Gây rối trật tự công cộng; tại Bản án số 80/2019/HSST ngày 21/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 05 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù của bản án số 11/2017 buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 06 năm 09 tháng tù; tiền sự: Không; hiện bị cáo đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Xuân Nguyên, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Trần Thị Thu H; vắng mặt.

2. Ông Hoàng May M; vắng mặt.

3. Anh Hoàng Ngọc V; vắng mặt.

4. Anh Hoàng Anh M2; vắng mặt.

5. Anh Hoàng Mạnh C; vắng mặt.

6. Anh Bùi Hữu P; vắng mặt.

7. Anh Doãn Đức T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 28/3/2018, trên đường đi làm về từ khu vực đảo Đình Vũ, đến khu vực cổng cảng Đ, phường B, quận H, thành phố Hải Phòng. Vũ Tuấn L phát hiện tại khu vực bờ cỏ ven đường đối diện cổng cảng Đình V có 01 khẩu súng ngắn bằng kim loại đã cũ, hình chữ “L” màu đen xám, dài khoảng 20 cm, báng súng dài khoảng 10 cm. L nhặt lên xem và thấy súng còn đầy đủ các bộ phận. L biết đó là súng thuộc loại vũ khí quận dụng nên đã cất vào trong túi đang đeo trên người và mang về nhà. Về đến nhà, L vẫn để khẩu súng trong túi không bỏ ra ngoài.

Đến khoảng 12 giờ ngày 29/3/2018, Vũ Tuấn L cùng Hoàng Ngọc V, sinh 1992, nơi cư trú: Số 3/81 đường Đ, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; Hoàng Anh M, sinh 1995, nơi cư trú: Số 5/36 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; Phạm Mạnh C, sinh 1994, nơi cư trú: Số 1/130 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng; Bùi Hữu P, sinh 1992, nơi cư trú: Số 1A/74/50/286 đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; Doãn Đức T, sinh 1993, nơi cư trú: Số 19/10/117 phố C, phường G, quận N, thành phố Hải Phòng và một đối tượng tên H (hiện không rõ địa chỉ) đến địa chỉ số 111/30/313 đường Đ, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng để tìm anh Lê Xuân T, nhưng T không có nhà. Lúc này, ông Nguyễn May M và bà Trần Thị Thu H ( là bố mẹ anh T) ra mở cổng để nói chuyện. Khoảng 5 phút sau, trong lúc nhóm của L và anh M, chị H đang nói chuyện tại khu vực trước cửa nhà thì Tùng cùng Nguyễn Đình Chinh, sinh 1984, nơi cư trú: Số 49 đường T, phường H, quận C, thành phố Hải Phòng; Nguyễn Hùng M, sinh 1997, nơi cư trú: Số 111/30/313 đường Đ, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng và một số đối tượng thanh niên khác (hiện chưa xác định được căn cước lai lịch) trong đó có người cầm theo dao, kiếm xông vào. Thấy vậy, nhóm của L chạy lùi lại phía sau, Long rút 01 khẩu súng từ trong túi đeo trên người nhặt được từ chiều hôm trước ra chĩa mũi súng chúc xuống đất hướng về phía nhóm T bắn 01 phát, viên đạn trúng chân phải của chị H gây thương tích. Sau đó, chị H được đưa đi bệnh viện cấp cứu. Còn L cùng cả nhóm lên xe bỏ chạy. Sau đó L đã lên cầu T ném súng xuống biển, L không nhớ chính xác khu vực đã ném súng ở vị trí nào.

Tại hiện trường trước số nhà 111/30/313 đường Đ, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng xác định và thu giữ được: 01 vỏ đạn màu vàng xám dài 2,4 cm, đường kính đáy 01cm, đường kính trên 0,8 cm, đáy vỏ đạn có vết lõm ở giữa; 01 viên đạn màu vàng xám dài 3,4 cm, đầu đạn dài 01 cm, đường kính đáy 01 cm, đáy in số 65 (vỏ đạn và viên đạn cách nhau 25 cm); 01 vết cày xước nền bê tông còn mới dài 2,3 cm, rộng 1,6 cm; 01 đám tạp chất màu nâu đỏ (nghi máu) đã khô trên diện 01 m x 0,6 m.

Tại Kết luận giám định số 1795/C54(P3) ngày 03/4/2018 của Viện Khoa học hình sự - Tổng Cục cảnh sát kết luận: 01 viên đạn và 01 vỏ đạn gửi đến giám định là đạn và vỏ của đạn quân dụng cỡ 7,62 x 25 mm; vỏ đạn là do loại súng (vũ khí) quân dụng K54 bắn ra.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 150/2018/TgT ngày 02/4/2018 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Bị hại chị Trần Thị Thu H bị tổn hại 32% sức khỏe. Thương tích của chị Hà có đặc điểm do hỏa khí (đạn bắn) gây nên.

Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xét xử sơ thẩm và Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm đối với Long về hành vi dùng súng bắn gây thương tích cho chị Trần Thị Thu H. Tại Bản án số 80/HSPT ngày 21/11/2019 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên phạt Vũ Tuấn L 05 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, tổng hợp với hình phạt 15 tháng tù tại bản án số 11 ngày 30/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, buộc Vũ Tuấn L phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 06 năm 09 tháng tù.

Tại Cáo trạng số 06/CT-VKSNQ ngày 15 tháng 12 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố Vũ Tuấn L về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tuấn L khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền truy tố. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xử mức án thấp nhất.

Tại phiên tòa, người làm chứng bà Trần Thị Thu H; ông Hoàng May M; anh Hoàng Ngọc V; anh Hoàng Anh M; anh Hoàng Mạnh C; anh Bùi Hữu P; anh Doãn Đức T đều vắng mặt tại phiên tòa lần thứ ba.

Tại phiên tòa, Điều tra viên ông Nguyễn Đình Dương trình bày: Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập hợp lệ những người làm chứng đến để làm rõ các tình tiết của vụ án nhưng người làm chứng đều không đến. Quá trình điều tra, bị cáo Vũ Tuấn L khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác. Do vậy cơ quan điều tra quyết định sao chụp các lời khai của những người làm chứng trong hồ sơ vụ án Cố ý gây thương tích để củng cố hồ sơ. Điều tra viên khẳng định đã làm đầy đủ các trình tự thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vũ Tuấn L về tội danh, điều luật áp dụng như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự tuyên phạt: Bị cáo Vũ Tuấn L từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng. Tổng hợp với hình phạt 06 năm 09 tháng tù của Bản án số 80/2019/HSPT ngày 21/11/2019 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án từ 08 năm 09 tháng đến 09 năm 03 tháng tù. Khi chấp hành hình phạt tù, trừ cho bị cáo 09 ngày tạm giữ của Bản án số 11/2017/HSST ngày 30/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng). Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử:

[1] Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tuấn L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về việc vắng mặt của những người làm chứng:

[3] Người làm chứng bà Trần Thị Thu H, ông Hoàng May M, anh Hoàng Ngọc V, anh Hoàng Anh M, anh Hoàng Mạnh C, anh Bùi Hữu P, anh Doãn Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt tại phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, ngày 23/3/2021 người làm chứng bà Trần Thị Thu H, ông Hoàng May M; anh Hoàng Ngọc V; anh Hoàng Anh M; anh Hoàng Mạnh C; anh Bùi Hữu P; anh Doãn Đức T tiếp tục vắng mặt tại phiên tòa. Mặc dù người làm chứng bà Trần Thị Thu H và ông Hoàng May M có đơn xin hoãn phiên tòa nhưng không có lý do chính đáng. Xét thấy việc vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt những người làm chứng theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về yêu cầu bổ sung người làm chứng tại phiên tòa:

[4] Trong các đơn xin hoãn phiên tòa, người làm chứng bà Trần Thị Thu H và ông Hoàng May M yêu cầu Hội đồng xét xử bổ sung thêm người làm chứng là anh Nguyễn Đình Ch, anh Nguyễn Hoàng H, anh Lê Xuân T, bà Phạm Thị Thu H và khi có mặt của những người làm chứng trên thì bà H, ông M sẽ có mặt tại phiên tòa.

[5] Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự, việc triệu tập ai đến làm chứng trong vụ án là thuộc thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Tuấn L khai phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu bổ sung người làm chứng của bà Trần Thị Thu H và ông Hoàng May M.

- Về chứng cứ xác định bị cáo có tội:

[6] Bị cáo Vũ Tuấn L khai nhận: Ngày 28/3/2018, Vũ Tuấn L có hành vi cất giữ trái phép 01 khẩu súng K54. Sau đó, đến ngày 29/3/2018 L đã dùng súng bắn gây thương tích cho bà Trần Thị Thu H.

[7] Lời khai nhận của bị cáo L tại phiên tòa và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ.

[8] Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Tuấn L phạm tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[9] Bị cáo Vũ Tuấn L có 02 tiền án chưa được xóa án tích: Tại Bản án số 11/2017/HSST ngày 30/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T xử 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng về tội Gây rối trật tự công cộng và án số 80/2019/HSPT ngày 21/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 05 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Tổng hợp với Bản án số 11/2017/HSST ngày 30/3/2017 buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 06 năm 09 tháng tù. Tuy nhiên tội Cố ý gây thương tích bị cáo thực hiện sau khi thực hiện tội Tàng trữ vũ khí quân dụng. Vì vậy lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[10] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội ra đầu thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Đã xử lý tại bản án số 44/HSST ngày 26/6/2019 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, Hải Phòng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[12] Đối với Hoàng Ngọc V, Hoàng Anh M, Phạm Mạnh C, Bùi Hữu P, Doãn Đức T và một đối tượng tên H khi đi với L không biết việc L cất giấu súng sau đó sử dụng nên không có căn cứ xử lý.

- Về án phí:

[13] Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Long phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Tuấn L 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp với hình phạt 06 (sáu) năm 09 (chín) tháng tù của Bản án số 80/2019/HSPT ngày 21/11/2019 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba bản án là 08 (tám) năm 09 (chín) tháng tù; trừ cho bị cáo 09 ngày tạm giữ của Bản án số 11/2017/HSST ngày 30/3/2017 Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng (từ ngày 30/8/2016 đến ngày 08/9/2016); thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại là 08 (tám) năm 08 (tám) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/9/2018.

- Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc: Bị cáo Vũ Tuấn L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Vũ Tuấn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 39/2021/HS-ST

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về