Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 34/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 34/2022/HSST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 23/2022/HSST ngày 26/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST- HS ngày 03/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn Q; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 15 tháng 6 năm 1988 tại Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: xóm TT, xã TH, thị xã PY (nay là thành phố PY), tỉnh Thái Nguyên; con ông Hoàng Văn H và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Trần Ngọc B; có một con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 01/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên khởi tố bị can đối với Hoàng Văn Q về tội “Tổ chức đánh bạc”; bị tạm giam từ ngày 23/01/2022 đến nay, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên; có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Nguyễn Thế D, sinh năm 1985, vắng mặt Địa chỉ: TDP G, phường ĐT, TP. PY, tỉnh Thái Nguyên

2. Trần Ngọc B, sinh năm 1984, có mặt Địa chỉ: xóm TT, xã TH, TP. PY, tỉnh Thái Nguyên

Người chứng kiến: Nguyễn Hữu S, sinh năm 1980, vắng mặt Địa chỉ: xóm TT, xã TH, TP. PY, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21 giờ 55 phút ngày 26/8/2021, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Văn Q tại xóm TT, xã TH, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên, phát hiện, thu giữ tại ngăn kéo dưới tủ quần áo đặt tại phòng ngủ tầng 2 gồm: 01 túi da màu nâu, nhãn hiệu Jeep, đã qua sử dụng có quai đeo, bên trong có 01 khẩu súng loại K54 màu đen có dòng chữ nước ngoài và số 13001471-2768 được để trong bọc da màu nâu; súng lắp hộp tiếp đạn có số 371 ở đáy, có 07 viên đạn màu vàng đồng, kích thước tương đồng nhau dài 3,5cm, đường kính đáy 0,9cm; còn 03 viên đạn màu vàng đồng để trong túi chưa lắp, kích thước tương đồng nhau dài 3,5cm, đường kính đáy 0,9cm. Khẩu súng được niêm phong vào hộp, ký hiệu S, 10 viên đạn được niêm phong vào 01 phong bì, ký hiệu D.

Tại Kết luận giám định số 7375 ngày 08/10/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Khẩu súng ngắn trong niêm phong ký hiệu S gửi giám định là súng ngắn K54, thuộc vũ khí quân dụng. 10 viên đạn trong niêm phong D gửi giám định là đạn cỡ 7,62x25mm, thuộc vũ khí quân dụng, sử sụng lắp, bắn được cho khẩu súng nêu trên. Hiện tại, khẩu súng và 10 viên đạn còn sử dụng để bắn được.

Kết luận giám định số 8076 ngày 18/11/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Dãy chữ số hiện tại 2678 đóng trên thân khẩu súng gửi đến giám định là các dãy chữ số đóng lại, không phải các dãy chữ số nguyên thủy. Số súng nguyên thủy là: 20… Tại vị trí dấu ba chấm (…) còn một vài ký tự nữa nhưng không xác định được.

Kết luận giám định số 284 ngày 21/02/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Dấu vết để lại trên các đầu đạn, vỏ đạn thực nghiệm do khẩu súng gửi giám định bắn ra không giống với dấu vết trên các đầu đạn, vỏ đạn của các vụ án khác hiện lưu tại Tàng thư dấu vết súng đạn của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an.

Tại cơ quan Điều tra Hoàng Văn Q khai: Khoảng giữa năm 2018, Nguyễn Thế D, sinh năm 1985, địa chỉ: TDP G, phường ĐT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên đến nhà Hoàng Văn Q ở xóm TT, xã TH, TX PY, tỉnh Thái Nguyên chơi. Trước khi ra về, D gửi Q giữ hộ trong vài ngày 01 chiếc túi da màu nâu, có quai đeo nhưng không nói bên trong túi chứa gì. Q đồng ý và cầm chiếc túi đó lên phòng trên tầng 2 nhà Q, cất vào ngăn kéo tủ quần áo. Sau đó, không thấy D quay lại, nên Q mở chiếc túi ra xem thì thấy có 01 khẩu súng ngắn màu đen được bọc trong 01 bao da màu nâu. Do sợ liên quan đến việc D sở hữu súng, nên Q không kiểm tra kỹ hơn trong chiếc túi còn có gì nữa và cất túi chứa khẩu súng vào ngăn kéo dưới của tủ quần áo tại phòng ngủ tầng 2. Từ đó đến nay, D vẫn không quay lại lấy khẩu súng, bản thân Q cũng quên chiếc túi đã cất giấu ở đó. Đến ngày 26/8/2021, Phòng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Văn Q về hành vi tổ chức đánh bạc đã phát hiện, thu giữ chiếc túi có chứa 01 khẩu súng loại K54 và 10 viên đạn như nêu trên.

Vật chứng vụ án: 01 khẩu súng ngắn K54, hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng Đại đội 29, Phòng kỹ thuật, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên; 01 bao súng bằng da màu nâu; 01 túi da màu nâu, nhãn hiệu Jeep, có quai đeo, đã qua sử dụng được bảo quản tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên.

Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKS-P1 ngày 22/4/2022 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã Quyết định truy tố Hoàng Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 điều 304 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 29/CT-VKS-P1 ngày 22/4/2022, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Hoàng Văn Q từ 12 đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; đề nghị xử lý vật chứng theo Quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi của bị cáo:

[2] Căn cứ vào biên bản khám xét, thu giữ vật chứng, lời khai nhận tội của bị cáo Hoàng Văn Q trong quá trình điều tra và tại phiên toà, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định Hoàng Văn Q đã có hành vi tàng trữ 01 khẩu súng K54 và 10 viên đạn, Kết luận giám định của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận thuộc vũ khí quân dụng. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố Hoàng Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo Quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo [5] Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Khi lượng hình, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, nên xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Kết quả xác minh và lời khai của bị cáo tại phiên toà, xác định bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, không áp dụng hình phạt cấm cư trú và quản chế đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: Cần giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên 01 khẩu súng K54 để xử lý theo Quy định của pháp luật; tịch thu tiêu hủy các vật chứng khác.

Bị cáo phải chịu án phí và được Quyền kháng cáo theo Quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc khẩu súng loại K54 và 10 viên đạn quân dụng , Hoàng Văn Q khai là của Nguyễn Thế D gửi Q cất giữ. Quá trình điều tra, Nguyễn Thế D không thừa nhận gửi súng, đạn tại nhà của Q, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Hoàng Văn Q 12 ( mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo 23/01/2022.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Hoàng Văn Q 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm cư trú và quản chế đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

3.1. Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên 01 khẩu súng ngắn K54, đựng trong túi nilon để xử lý theo Quy định của pháp luật.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/3/2022 giữa Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên và Thủ kho đơn vị C29/PKT Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên.

3.2. Tịch thu tiêu hủy: 01 túi da màu nâu, nhãn hiệu Jeep, có quai đeo, đã qua sử dụng; 01 bao súng bằng da màu nâu, đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 52, ngày 19/4/2022, giữa Công an tỉnh Thái Nguyên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí, buộc Hoàng Văn Q phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

513
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 34/2022/HSST

Số hiệu:34/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về