Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 251/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 251/2022/HS-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 07/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 987/2021/HSST ngày 15 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1920/2022/QĐXXST-HS, ngày 17/5/2022, đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Xuân A, sinh năm 1990 tại tỉnh C; Hộ khẩu thường trú tại ấp TC, xã BH, huyện D, tỉnh C; Nghề nghiệp chạy xe ôm; Trình độ học vấn lớp 9/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn F và bà Trần Thị G; Có vợ là Lê Thị Kiều H và có 01 con; Tiền sự: không;

Tiền án:

- Tại bản án số 04/2012/HSST ngày 23/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh C xử phạt 4 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã chấp xong hình phạt vào ngày 14/12/2015.

- Tại bản án số 99/2017/HSST ngày 20/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 9 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã chấp xong hình phạt vào ngày 02/3/2018.

Nhân thân: Ngày 18/12/2020, bị Tòa án nhân dân quận M, Thành phố H xử phạt 6 năm 6 tháng tù, về tội “Tàng trử trái phép chất ma túy”, theo bản án số 74/2020/HSST.

Tạm giam từ ngày 10/01/2019, có mặt

2/ Trần Quốc B, sinh năm 1979 tại Thành phố H; Hộ khẩu thường trú tại 138B đại lộ 3, tổ 10, khu phố 5, phường PB, Quận E, Thành phố H; Nghề nghiệp thợ cơ khí; Trình độ học vấn lớp 7/12; Dân tộc Kinh; Giới tính nam; Tôn giáo Thiên chúa; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Trần Ngọc I và bà Nguyễn Thị J; Có vợ là Bùi Thị Ánh K, chưa có con.

Tiền án: Ngày 17/5/2010 bị Tòa án nhân dân quận Quận L, Thành phố H xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 25/12/2016.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 06/9/2001 bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố H xử phạt 1 năm 8 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

- Ngày 29/8/2003 bị Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố H xử phạt 3 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Ngày 29/6/2007 bị Ủy ban nhân dân Thành phố H đưa vào cơ sở chữa bệnh tại Trung tâm giáo dục và giải quyết việc làm Phú Đức, thời hạn 24 tháng do sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 18/12/2020, bị Tòa án nhân dân quận M, Thành phố H xử phạt 3 năm 6 tháng tù, về tội “Tàng trử trái phép chất ma túy”, theo bản án số 74/2020/HSST. Tạm giam từ ngày 10/01/2019, có mặt

Người bào chữa: Ông Đoàn Văn Nên, là Luật sư của Công ty Luật TNHH N, thuộc đoàn Luật sư Thành phố H, bào chữa cho bị cáo Trần Quốc B, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 55 phút ngày 10/01/2019, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an quận M, Thành phố H đi tuần tra đến trước nhà số 538 đường Trường Sa, Phường 2, quận M phát hiện Trần Quốc B điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 51H1-xxxxx chở Nguyễn Xuân A, có biểu hiện nghi vấn nên tổ tuần tra cho dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện A mang túi xách có chứa 1 khẩu súng loại K59 màu đen, 1 hộp tiếp đạn bên trong có 6 viên đạn được bọc trong bao da màu đen; trong lưng quần bên phải phía trước của A đang mặc có 1 khẩu súng loại K54, 1 hộp tiếp đạn bên trong có 7 viên đạn, nên Tổ tuần tra đưa A và B về Công an Phường 2, quận M để làm việc. Tại đây, Tổ tuần tra tiếp tục kiểm tra thì phát hiện trong cái bóp màu đen để trong túi quần sau, bên phải của A đang mặc có 1 túi nylon, bên trong chứa tinh thể màu trắng; kiểm tra túi xách hình đầu con cá sấu của B thì phát hiện có 1 gói nylon hàn kín, chứa tinh thể không màu. A và B khai là ma túy tổng hợp, mua về để sử dụng. Công an Phường 2 tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong, thu giữ các đồ vật trên để xử lý.

Kết quả giám định như sau:

1/ Vật chứng thu giữ của B gồm: 1 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu là ma túy rắn, khối lượng 3,1273g, loại Methamphetamine;

2/ Vật chứng thu giữ của A gồm:

- 01 (Một) gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,0333g, loại Ketamine.

- 02 (Hai) vật có hình dạng súng: 1 khẩu là súng K54, cỡ nòng 7,62 mm do Liên Xô sản xuất, số súng nguyên thủy là EK2098 1905, súng còn đủ các bộ phận hoạt động bình thường và bắn được đạn nổ; 1 khẩu là súng K59, cỡ nòng 9 mm do Liên Xô sản xuất, không xác định được số súng nguyên thủy, súng còn đủ các bộ phận, hoạt động bình thường và bắn được đạn nổ.

- 7 (Bảy) viên đạn, gồm 5 viên ký hiệu 711-E, 1 viên ký hiệu 21-54, 1 viên ký hiệu 25-bxn-1, là đạn quân dụng cỡ 7,62 x 25mm, chưa qua sử dụng, dùng cho súng quân dụng có cỡ nòng 7,62mm như súng ngắn K54.

- 6 (Sáu) viên đạn, gồm 2 viên ký hiệu PMC-9MM LUGER, 2 viên ký hiệu A USA-9MM LUGER, 1 viên có ký hiệu AP 15-9MM LUGER, 1 viên có ký hiệu WCC-08 là đạn quân dụng cỡ 9 x 18mm, chưa qua sử dụng, dùng cho súng quân dụng có cỡ nòng 9mm như súng ngắn K59.

Quá trình điều tra Nguyễn Xuân A khai nhận: Nguồn gốc 2 khẩu súng bị thu giữ là của A mua của 1 đối tượng tên R không rõ lai lịch, sinh sống tại Campuchia, với số tiền là 28.000.000 đồng/khẩu. A biết được B qua giới thiệu của người có tên T không rõ lai lịch, cụ thể: Vào khoảng 17 giờ ngày 08/01/2019, T điện thoại và hẹn gặp A tại cà phê “Phú Hữu”, ở vòng xoay Quận E, Thành phố H. Khi A đến điểm hẹn thấy T đi cùng với B, rồi T giới thiệu cho A biết B là người cần mua súng. Tại đây, A mở điện thoại di động ra cho B xem hình cây súng (Hình do R gửi cho A), B xem rồi nói A gửi hình cây súng qua cho B và đặt vấn đề mua súng. A đã gửi hình ảnh 2 khẩu súng qua ứng dụng Zalo, qua điện thoại của B, để B chọn mua. Sau đó B gọi điện thoại cho A đặt mua 1 khẩu súng thì A báo giá là 32.000.000 đồng và B đồng ý mua.

Ngày 09/01/2019, A điện thoại cho người tên R hỏi mua súng và hẹn gặp nhau ở bến xe Kiến Tường, thuộc tỉnh C. Chiều cùng ngày A đến điểm hẹn thì có người đàn ông (không rõ lai lịch, là người của R) mang đến giao cho A 2 khẩu súng ngắn, 1 hộp tiếp đạn và nói giá là 28.000.000 đồng/khẩu, A nhận súng và hẹn khi nào bán được sẽ thanh toán tiền. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày A thuê xe ô tô đến Thành phố H để bán cho B. A gửi hình ảnh 2 khẩu súng, 1 hộp tiếp đạn và nhắn tin cho B biết là A đang trên đường đi và B nói lại với A là đợi ở cầu Điện Biên Phủ.

Đến 23 giờ 30 phút cùng ngày, A và B gặp nhau tại quán phở ở cầu Điện Biên Phủ, B hỏi A “Có đem đồ theo không?”, A biết B hỏi có mang súng không nên trả lời là “Có”. Sau đó B điều khiển xe máy chở A đi đến nhà của người có tên là “Huy Vũ” chơi và định mua bán súng với người này, nhưng trên đường đi thì bị phát hiện bắt giữ. Quá trình quen biết A sử dụng số điện thoại 0808.527.178 và sử dụng tài khoản Zalo “phatheo”.

Trần Quốc B khai nhận: B quen biết với A và gặp A thông qua người có tên T. Sau đó B có trao đổi qua tài khoản Zalo “Tây nguyên” để nhắn tin cho A với mục đích tiếp chuyện, chứ không có trao đổi mua bán súng với A. B không biết trong người A có súng và không biết A sử dụng súng vào việc gì. Việc A liên tục gửi những hình ảnh liên quan đến khẩu súng cho B là vì trước đó khi nghe A nói có súng thì B có đặt vấn đề nếu có súng thì mang lên cho B xem, còn việc B nhắn tin hỏi A về nòng giảm thanh và đạn là hỏi cho biết giá cả. Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 09/012019 A gọi điện thoại rủ B ăn tối tại quán phở gần chân cầu Điện Biên Phủ nên B đến đó, ăn xong B định chở A về nhà chơi thì bị Công an kiểm tra, B không biết việc A có mang theo súng.

Tiến hành kiểm tra điện thoại hiệu Iphone màu vàng, Imel số 35931106294781 của Nguyễn Xuân A phát hiện có chứa nội dung trao đổi qua mạng xã hội Zalo tài khoản “phatheo” của A và tài khoản “Tây nguyên” của B về việc mua vũ khí quân dụng với tài khoản “R” là của người có tên R ở Campuchia và tài khoản “Century” của T.

Kiểm tra điện thoại Samsung Galaxy A8+ của B thì có nội dung trao đổi liên quan đến vũ khí quân dụng giữa tài khoản Zalo “Quốc B” của B với tài khoản Zalo “Century” tên trong danh bạ “T súng” số +84939437xxx là của người có tên T (Người đã cùng B gặp A tại quán cà phê gần vòng xoay Phú Hữu, Quận E vào ngày 08/01/2019), trong nội dung tin nhắn giữa B và T có câu “Zulo hay K54”. B sử dụng tài khoản Zalo tên “Quốc B” hỏi giá đạn và gửi hình ảnh súng quân dụng (lấy từ hình ảnh của A gửi cho) để trao đổi với tài khoản Zalo tên “Tư Dũn” vào lúc 14 giờ 01 phút ngày 09/01/2019 với tài khoản Zalo “A.A.A”. Từ tin nhắn tài khoản Zalo “Tây nguyên” của B với tài khoản Zalo “phatheo” của A, “Huy Vũ” của Huy thể hiện vào tối ngày 09/01/2019 A đã gửi hình ảnh 2 khẩu súng ngắn và 1 hộp tiếp đạn (giống như đặc điểm vật chứng đã thu giữ) và thông báo cho B biết là A đã có súng và đang trên đường lên Thành phố H để gặp B “Em đã nhận được rồi anh”. Các tin nhắn về hình ảnh và câu nói của A gửi cho B thể hiện trên tài khoản Zalo của B là đã nhận. Tin nhắn qua tài khoản Zalo của B với tài khoản Zalo “Huy Vũ” thể hiện lúc 23 giờ 50 phút ngày 09/01/2019 với nội dung: “Anh lấy cái kia xong… anh chạy xuống”, tin nhắn được tài khoản Zalo “Huy Vũ” trả lời là “OK anh; Thằng đó có xuống không anh” thể hiện việc B hẹn gặp Huy sau khi đã gặp A, phù hợp với lời khai của A. A giải thích tin nhắn trao đổi với B “… đồ…” chính là súng, B giải thích nội dung tin nhắn là không nhớ được, sử dụng tiếng lóng và không thừa nhận “…cái kia..” (tin nhắn với Huy) là súng mà là ma túy và gái mại dâm, vì trước đó B có hẹn với Huy sử dụng ma túy và quan hệ với gái mại dâm.

Bản Cáo trạng số 386/CT-VKS-P1, ngày 23/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân A về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, theo tình tiết định khung tăng nặng hình phạt “Tái phạm nguy hiểm”, qui định tại điểm h khoản 2 Điều 304 và truy tố bị cáo Trần Quốc B về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Nguyễn Xuân A thừa nhận đã thực hiện những hành vi như nội dung bản Cáo trạng và khẳng định: Bị cáo Trần Quốc B là người trực tiếp hỏi mua 1 khẩu súng của bị cáo, với giá mua bán thỏa thuận là 32.000.000 đồng; 02 khẩu súng bị Công an thu giữ vào đêm 09/01/2019 rạng sáng ngày 10/01/2019 là của bị cáo mang lên bán cho bị cáo B, do bị cáo B yêu cầu mang cả 2 khẩu lên để cho B chọn lấy 1 khẩu. Bị cáo khẳng định: Từ khi gặp bị cáo B tại quán café ở vòng xoay Phú Hữu, Quận E đến khi bị bắt thì bị cáo B và bị cáo chỉ trao đổi thống nhất việc mua bán súng, chứ không có trao đổi việc sử dụng ma túy hay gái mại dâm gì cả. Do đó khi gặp nhau tại quán phở đầu cầu Điện Biên Phủ, bị cáo B hỏi “Có mang đồ theo không” thì bị cáo hiểu là B hỏi có mang súng theo không, nên bị cáo đáp là có. Sau khi ăn phở xong thì bị cáo B nói chở bị cáo đến nơi mà B đã chọn để tiến hành giao tiền, giao súng thì bị cáo lên xe cho bị cáo chở đi. Bị cáo xác định bị cáo mang 2 khẩu súng lên bán cho bị cáo B 1 khẩu, vì từ khi gặp bị cáo B cho đến lúc bị bắt thì bị cáo B là người hỏi mua 1 khẩu súng, bị cáo B không nói là mua cho ai, hay giới thiệu cho ai mua.

- Bị cáo Trần Quốc B thừa nhận quá trình gặp gỡ bị cáo B như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát mô tả và lời khai của bị cáo B tại phiên tòa. Bị cáo khẳng định có nhận và gởi các tin nhắn, hình ảnh súng từ tài khoản Zalo tên “Quốc B” và tài khoản Zalo “Tây nguyên” của bị cáo, với tài khoản Zalo “phatheo” của bị cáo A, nhưng chỉ là chơi vui và xã giao chứ không phải để mua súng với bị cáo Th. Bị cáo khẳng định: Vào ngày 08/01/2019 có gặp bị cáo A tại quán cà phê ở vòng xoay “Phú Hữu”, Quận E, Thành phố H nhưng chỉ là tình cờ, do T rủ đi chứ không có mục đích hỏi mua súng của bị cáo Th. Trong lúc tiếp chuyện thấy có cùng sở thích là sử dụng ma túy, nên bị cáo A tự mở điện thoại ra cho bị cáo xem hình ảnh khẩu súng và bị cáo A chuyển hình súng qua ứng dụng Zalo, qua điện thoại của bị cáo. Bị cáo không có đặt vấn đề mua súng của bị cáo A và vào tối ngày 09/012019, bị cáo A gọi điện thoại rủ bị cáo ăn tối tại quán phở gần chân cầu Điện Biên Phủ nên bị cáo đến. Ăn xong, bị cáo chở A về nhà bị cáo chơi và trên đường đi thì bị Công an chận bắt, thu giữ súng đạn trong người của bị cáo A và lúc này bị cáo mới biết bị cáo Th có mang súng theo. Bị cáo thừa nhận có nhắn tin hỏi bị cáo A giá cả nòng giảm thanh và đạn, nhưng là hỏi để cho biết giá cả, chứ không phải để mua bán.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân A khai nhận đã thực hiện những hành vi như Viện kiểm sát đã hệ thống tại bản Cáo trạng. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Xuân A về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, theo điểm h khoản 2 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với hành vi của bị cáo Trần Quốc B: Căn cứ vào biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của bị cáo A và nội dung tin nhắn, hình ảnh gửi qua lại giữa 2 bị cáo, giữa bị cáo B và đối tượng tên T, tên Huy, tên Tư Dũn có đủ chứng cứ xác định từ khi chưa gặp nhau cho đến khi chở bị cáo A và bị bắt quả tang thì bị cáo B biết rõ bị cáo A có súng trong người. Do đó, bị cáo Trần Quốc B là đồng phạm của bị cáo Th về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, theo qui định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Quốc B đã bị kết án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Xuân A khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo A.

Về hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân A từ 6 năm đến 7 năm tù và phạt bổ sung 20.000.000 đồng; xử phạt bị cáo B từ 3 năm đến 4 năm tù và phạt bổ sung 10.000.000 đồng, cùng về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Về vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử theo qui định của pháp luật.

Phần tranh luận:

- Bị cáo Nguyễn Xuân A không trình bày lời bào chữa.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Quốc B cho rằng trước khi bị Công an bắt thì bị cáo B không biết bị cáo Th có mang theo súng. Hồ sơ vụ án không thu thập được chứng cứ nào xác định bị cáo B thỏa thuận mua súng của bị cáo Th, cụ thể: Khi gặp nhau tại quán café ở Phú Hữu, Quận 9 thì bị cáo B chỉ nói về ma túy, còn tại quán phở đầu cầu Điện Biên Phủ thì hai bên không trao đổi nội dung mua bán súng và sau khi ăn phở xong thì bị cáo Th chở bị cáo B đi chơi. Các tin nhắn còn lưu trong điện thoại của các bị cáo là có thật, nhưng đó là thú vui, sở thích của bị cáo B và bị cáo Th; Hình ảnh súng mà bị cáo Th gởi cho bị cáo B là hình ảnh súng mà Th lấy từ R gởi chuyển qua, chứ không phải Th chụp trực tiếp, còn tin nhắn hỏi mua đạn là hỏi để tiếp chuyện chứ không phải hỏi để mua. Ban đầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với các bị cáo về tội “Mua bán trái phép vũ khí, quân dụng”, nhưng do không chứng minh được bị cáo B có hành vi này nên chuyển qua khởi tố bị cáo B về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, nhưng cũng không chứng minh được bị cáo B đã có hành vi gì để giúp cho bị cáo Th tàng trữ súng. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Quốc B không phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, hoặc trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.

Đại diện Viện kiểm sát đối đáp: Ngoài lời khai của bị cáo Th thì còn có các tin nhắn, vật chứng thu giữ được. Các chứng cứ này có tính liên quan với nhau và phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm mà các bị cáo thực hiện hành vi. Do đó, có đủ căn cứ xác định bị cáo B là đồng phạm của bị cáo Th về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Trong quá trình tố tụng, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã tiến hành thu thập đầy đủ các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo. Quá trình thu thập chứng cứ Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, không có căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Luật sư tranh luận tiếp: Hình ảnh, tin nhắn mà bị cáo Th gởi đến bị cáo B vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 09/01/2019 thì B chưa đọc, thì Viện kiểm sát căn cứ vào đâu để xác định bị cáo B biết bị cáo Th mang theo súng.

Đại diện Viện kiểm sát đối đáp: Từ khi biết nhau đến khi gặp nhau tại quán phở đầu cầu Điện Biên Phủ thì bị cáo Th không có nói với bị cáo B vấn đề nào khác ngoài việc thỏa thuận bán 01 khẩu súng cho bị cáo B, nên khi bị cáo B hỏi bị cáo Th “Có mang đồ theo không” thì bị cáo Th hiểu là bị cáo B hỏi có mang súng theo không nên bị cáo Th trả lời là có. Do đó, có đủ căn cứ xác định tại thời điểm này bị cáo B biết bị cáo Th có mang theo súng.

Đại diện Viện kiểm sát và Luật sư bảo lưu ý kiến tranh luận và không tranh luận về vấn đề nào khác.

Bị cáo Nguyễn Xuân Th và bị cáo Trần Quốc B không tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Xuân A đề nghị Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo Trần Quốc B yêu cầu Tòa tòa xem xét, vì bị cáo không có hành vi hỏi mua súng và khi chở bị cáo A đi chơi thì bị cáo B không biết bị cáo Th có mang theo súng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Th tại phiên tòa phù hợp vật chứng và những chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập, có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ căn cứ, để xác định: 02 khẩu súng và 13 viên đạn mà Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an quận M, Thành phố H thu giữ vào lúc 00 giờ 55 phút ngày 10/01/2019, tại trước nhà số 538 đường Trường Sa, Phường 2, quận M, khi khám người của bị cáo Nguyễn Xuân A, là của bị cáo Th mua của người có tên R sinh sống ở Cam-pu-chia. Bị cáo A đem 02 khẩu súng trên đi từ tỉnh C đến Thành phố H để bán lại cho bị cáo Trần Quốc B 1 khẩu, theo thỏa thuận giữa bị cáo Th và bị cáo B.

Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Xuân A là người có khả năng nhận thức được hành vi mua bán trái phép súng đạn là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm qui định của nhà nước về mua bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí quân dụng. Nhận thức được vậy, nhưng vì mục đích lợi nhuận nên bị cáo đã đặt mua súng đạn của người có tên R, để bán lại cho bị cáo Trần Quốc B. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”, tội phạm và hình phạt được qui định tại Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ngày 20/9/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 9 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo bản án số 99/2017/HSST và tại bản án này xác định bị cáo đã “Tái phạm”. Bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” trong thời gian bị cáo chưa được xóa án tích, do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng hình phạt “Tái phạm nguy hiểm”, được qui định tại điểm h khoản 2 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Căn cứ nội dung, hình ảnh các tin nhắn gởi qua lại giữa tài khoản Zalo “Quốc B” và tài khoản Zalo “Tây Nguyên” của bị cáo Trần Quốc B với tài khoản Zalo “Phatheo” của bị cáo Th; nội dung các tin nhắn qua khoản Zalo “Quốc B” với tài khoản Zalo “Century” tên trong danh bạ “T súng” của T (Người môi giới cho hai bị cáo mua bán súng); nội dung các tin nhắn qua tài khoản Zalo tên “Quốc B” với tài khoản Zalo “Huy Vũ” của người có tên Huy; nội dung tin nhắn, hình ảnh từ tài khoản Zalo tên “Quốc B” với tài khoản Zalo tên “Tư Dũn” và lời khai của bị cáo Th, có đủ căn cứ để xác định: Qua môi giới của người có tên T, vào ngày 08/01/2019 bị cáo Trần Quốc B gặp bị cáo A tại quán cà phê ở vòng xoay “Phú Hữu”, Quận E, nay là Quận E, Thành phố H. Qua tiếp chuyện và xem hình ảnh súng mà bị cáo Th gởi qua thì bị cáo B biết bị cáo Th có bán súng và sau khi ra về thì bị cáo B gọi điện thoại đến bị cáo A để hỏi mua 1 khẩu súng, hai bên thống nhất giá mua bán là 32.000.000 đồng. Khoảng 18 giờ ngày 09/01/2019, bị cáo Th gọi điện thoại cho bị cáo B biết là đã có súng và đang mang súng lên bán cho bị cáo B thì bị cáo B hẹn gặp bị cáo Th tại quán phở đầu cầu Điện Biên Phủ. Trong lúc ăn phở thì bị cáo B hỏi và biết được bị cáo A có mang theo súng để bán cho mình nên đã chở bị cáo B đến địa điểm khác để tiến hành giao súng, giao tiền và trên đường đi thì bị Công an quận M kiểm tra, phát hiện, bắt giữ cùng với tang vật.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Quốc B thừa nhận diễn biến vụ án như bản Cáo trạng đã truy tố và thừa nhận hình ảnh, nội dung các tin nhắn như đã liệt kê trên là có thật, nên bị cáo giải thích là để xã giao, tiếp chuyện, tìm hiểu giá cả súng đạn để khoe khoang, chứ không có mục đích giao dịch mua bán, tàng trữ súng đạn với bị cáo Nguyễn Xuân A. Lời giải thích trên của bị cáo B không phù hợp với diễn biến vụ án và nội dung các tin nhắn, trong khi bị cáo Th khẳng định: Từ khi gặp bị cáo B tại quán café ở vòng xoay Phú Hữu, Quận 9 đến khi bị bắt thì bị cáo B và bị cáo chỉ trao đổi, thống nhất việc mua bán súng, chứ không có trao nội dung nào khác. Do đó, có đủ căn cứ xác định bị cáo Trần Quốc B đã có hành vi thỏa thuận mua một trong hai khẩu súng mà bị cáo Nguyễn Xuân Th mang đến bán, sở dĩ bị cáo B không thực hiện được hành vi giao nhận súng, là do trên đường đi bị Công an quận Phú Nhuận phát hiện, bắt giữ. Đây là sự trở ngại khách quan ngoài ý muốn của bị cáo Trần Quốc B, do đó hành vi của bị cáo B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”, tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ hình phạt:

Bị cáo Nguyễn Xuận Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo Trần Quốc B bị Tòa án nhân dân quận Quận L, Thành phố H xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt, nhưng chưa được xóa án, nên lần phạm tội này bị cáo đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Xét tính chất vụ án mà các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng. Bỡi, vũ khí, quân dụng là đối tượng được nhà nước quản lý rất chặt chẽ; mọi hoạt động sản xuất, mua bán, tàng trữ vũ khí, quân dụng đều phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Hành vi của các bị cáo không những gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, mà còn có khả năng đe dọa đến an toàn tính mạng, tài sản của người dân. Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Xuân A là người có hành vi mua 2 khẩu súng và 13 viên đạn của R với mục đích để bán, còn bị cáo B là người có hành vi thoả thuận mua 1 trong 2 khẩu súng của bị cáo Th, nhưng trên đường đi đến địa điểm giao nhận súng thì bị Cơ quan Công an phát hiện, ngăn chặn được. Do đó bị cáo Th được áp dụng Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 còn qui định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, phạt quản chế, hoặc cấm cư trú…”. Xét thấy, các bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù, nên áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền và mức phạt như Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Các vật chứng như súng, đạn là vũ khí quân dụng nên giao cho Công an Thành phố H giải quyết theo thẩm quyền.

- Điện thoại di động các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Túi xách da, bao da màu đen liên quan đến vụ án, nhưng không có giá trị nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm h khoản 2, khoản 5 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

1/ Xử phạt Nguyễn Xuân A 5 (Năm) năm tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí, quân dụng”. Tổng hợp hình phạt 6 (Sáu) năm 6 (Sáu) tháng tù của Bản án số 74/2020/HSST, ngày 18/12/2020 của Tòa án nhân dân quận M, Thành phố H, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung của hai bản án là 11 (Mười một) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Xuân Th 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng, để sung vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 304; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 57 và Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

2/ Xử phạt Trần Quốc B 3 (Ba) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt 3 (Ba) năm 6 (Sáu) tháng tù của Bản án số 74/2020/HSST, ngày 18/12/2020 của Tòa án nhân dân quận M, Thành phố H, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung của hai bản án là 7 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Quốc B 10.000.000 (Mười triệu) đồng, để sung vào ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước các vật chứng sau:

- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6 màu vàng số seri: F1LPT716G5MQ thực nhận 01 ĐTDĐ hiệu Iphone màu vàng có imeil: …947831, không kiểm tra số seri do không có nguồn điện. Mã số: DT1/013BB/2022 - 01 ĐTDĐ màu đen hiệu Nokia, imei: 357326082599190. Mã số:

DT2/013BB/2022 - 01 ĐTDĐ hiệu OPPO, imei: 869604030909237 không kiểm tra số imeil do không có nguồn điện, thực nhận Oppo màu xanh. Mã số: DT3/013BB/2022 - 01 ĐTDĐ hiệu SAMSUNG, imei: 355113090739584/01 Thực nhận một ĐTDĐ hiệu SAMSUNG, imei: 355113090739584. Mã số: DT4/013BB/2022 Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 02 (hai) bao da màu đen dùng để đựng 02 khẩu súng;

- 01 túi da có quai đeo. Mã số: TUI/013BB/2022.

Giao cho Công an Thành phố H để xử lý theo thẩm quyền các vật chứng sau:

- 01 (một) khẩu súng K54, số súng nguyên thuỷ là EK2098 1905;

- 01 khẩu súng K59, không xác định được số súng nguyên thuỷ;

- 07 (bảy) viên đạn, gồm 05 (năm) viên ký hiệu 711-E, 01 (một) viên ký hiệu 21-54, 01 (một) viên ký hiệu 25-bxn-1 - 06 (sáu) viên đạn bằng kim loại, trong đó có 03 (ba) viên có số PMC9MMLUGER, 02 (hai) viên có số AUSH9MMLUGER, 01 (một) viên có số WCC08;

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2022/013, ngày 6/10/2021 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố H và Phiếu nhập kho vật chứng số 15 ngày 28 tháng 12 năm 2020 của Phòng An ninh điều tra – Công an Thành phố H).

Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, để sung vào ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 07/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 251/2022/HS-ST

Số hiệu:251/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về