Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 207/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 207/2023/HS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Trong các ngày 30 tháng 11 năm 2023 và 06 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 238/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2023/QĐXXST–HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Phan Hoài L, sinh năm 2002 tại tỉnh Bình Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số B đường H, Khu G, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thành B và bà Phan Thị Thu H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

2. Ngô Hoàng P, sinh ngày 04/7/2006 tại tỉnh Bình Dương. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ H, Khu phố A, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Ngô Hoàng H1 và bà Nguyễn Thị Xuân T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/7/2023, bị Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, hình thức phạt cảnh cáo; bị cáo bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương khởi tố và bắt tạm giam từ ngày 22/8/2022 đến nay trong vụ án khác; có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Ngô Hoàng P:

1. Ông Ngô Hoàng H1, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ H, Khu phố A, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, là cha ruột của bị cáo; có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Xuân T, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ H, Khu phố A, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, là mẹ ruột của bị cáo; có mặt.

Người làm chứng:

1. Nguyễn Đức Trí D, sinh năm 2000; vắng mặt.

2. Phan Văn C, sinh năm 2006; vắng mặt.

3. Phạm Hoàng P1, sinh năm 2005; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối tháng 6/2022, bị cáo Nguyễn Phan Hoài L quen biết với đối tượng tên Có (chưa rõ nhân thân, lai lịch), L thấy Có treo 01 vật bằng kim loại hình dạng cây bút trên móc chìa khóa xe mô tô của C1, L xin Có thì Có đồng ý và đưa cho L. Khoảng 01 tuần sau, C1 gặp lại L và cho L 01 viên đạn thể thao và Có gắn viên đạn thể thao vào vật bằng kim loại hình dạng cây bút mà trước đó C1 đã cho L, đồng thời nói cho L biết đó là cây súng bút. Sau đó, L treo khẩu súng bút nêu trên vào móc chìa khóa xe mô tô của L. Trong tháng 7/2022, bị cáo L đi uống cà phê cùng với Phạm Hoàng P1, Ngô Hoàng P, Nguyễn Đức Trí D, Phan Văn C và cho những người này xem súng bút. Khoảng cuối tháng 7/2022 (không rõ ngày), bị cáo L và bị cáo Ngô Hoàng P đến quán cà phê G, địa chỉ: số A, đường D, chung cư P, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương để uống nước, bị cáo P hỏi xin bị cáo L khẩu súng bút thì bị cáo L đồng ý. Sau khi được bị cáo L cho khẩu súng bút, bị cáo P cất giấu súng bút trong túi quần và luôn mang theo bên mình mục đích để phòng thân vì thời điểm đó bị cáo P đang bị một số đối tượng truy tìm để trả thù.

Đến ngày 05/8/2022, đối tượng Nguyễn Nhật T1 cùng bị cáo Ngô Hoàng P dọn đến sống tại phòng trọ địa chỉ số E, đường N, Tổ G, Khu I, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo P lấy khẩu súng bút trong túi quần để trên nóc tủ lạnh trong phòng trọ. Ngày 06/8/2022, bị cáo L đến phòng trọ của T1 và bị cáo P chơi, nhìn thấy trên nóc tủ lạnh có khẩu súng bút mà bị cáo L đã cho bị cáo P trước đó nên bị cáo L lấy khẩu súng bút gắn vào móc chìa khóa xe mô tô hiệu Classico (không rõ biển số) là xe của đối tượng Nguyễn Nhật T1 giao cho bị cáo L sử dụng.

Ngày 07/8/2022, L tiếp tục đến phòng trọ của Thiên chơi, L để khẩu súng bút gắn vào móc chìa khóa xe và xe mô tô hiệu Classico trong phòng trọ rồi đi chơi cùng bạn gái. Bị cáo P khi ở phòng trọ nhìn thấy trên xe mô tô hiệu C2 có gắn chìa khóa xe và có cây súng bút nên sợ nhiều người nhìn thấy vì vậy bị cáo P tháo súng bút khỏi móc chìa khóa xe mô tô, bỏ vào giỏ màu xanh đen và treo lên móc trên tường gần cửa ra vào trong phòng trọ. Sáng ngày 08/8/2022, đối tượng Nguyễn Nhật T1 đến trình diện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương về hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích”, xảy ra ngày 19/6/2022 tại quán xã C thuộc khu A, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương khám xét phòng trọ của T1 tại địa chỉ số E, đường N, tổ G, khu I, P, thành phố T, tỉnh Bình Dương và tạm giữ 01 đoạn ống kim loại màu vàng có kết cấu giống súng bút dài 10cm bên trong có chứa 01 viên đạn màu vàng đồng kích thước dài khoảng 2cm.

Tại Bản Kết luận giám định số 5060/KL-KTHS ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Phân viện Khoa học hình sự– Bộ C3 kết luận: Mẫu vật giám định có hình dạng bút là súng tự chế bắn đạn cỡ 5,6 x 15mm, thuộc nhóm vũ khí quân dụng; Mẫu vật giống viên đạn gửi giám định là đạn thể thao cỡ 5,6 x 15mm, đạn này dùng được cho súng bút trên. Dùng khẩu súng bút nêu trên bắn viên đạn gửi giám định vào cơ thể người có thể gây sát thương.

Ngày 24/3/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh B đã bàn giao: 01 khẩu súng bút kim loại màu vàng, dài khoảng 10cm và 01 viên đạn bằng kim loại màu vàng đồng, có đầu đạn màu xám cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh B.

Cáo trạng số 184/CT-VKSBD-P1 ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Phan Hoài L và Ngô Hoàng P về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trong vụ án này, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Về nhân thân, bị cáo L là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, còn bị cáo P đã từng bị Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích với hình thức là cảnh cáo và hiện đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T khởi tố, điều tra về các tội “Cố ý gây thương tích” và “Gây rối trật tự công cộng”. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo rõ ràng, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Riêng đối với bị cáo P, khi thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi. Xét thấy, đây là các tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Hoài L mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58; Điều 38; Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Ngô Hoàng P mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 01 khẩu súng tự chế dạng bút và 01 viên đạn thể thao.

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị cáo Ngô Hoàng P là ông Ngô Hoàng H1 và bà Nguyễn Thị Xuân T trình bày: Không có yêu cầu gì trong vụ án, không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

Tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Phan Hoài L và Ngô Hoàng P trình bày: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Phan Hoài L và Ngô Hoàng P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố đối với các bị cáo. Lời khai của các bị cáo phù hợp với biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng cuối tháng 6/2022, bị cáo Nguyễn Phan Hoài L được đối tượng tên C1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) cho 01 khẩu súng bút thuộc nhóm vũ khí quân dụng và 01 viên đạn thể thao gắn vào súng bút. Khi biết bị cáo L có khẩu súng bút thì đến khoảng cuối tháng 7/2022, bị cáo Ngô Hoàng P xin bị cáo L cây súng bút nêu trên và được bị cáo L đồng ý. Ngày 06/8/2022, bị cáo L nhìn thấy khẩu súng bút bị cáo P để trên nóc tủ lạnh tại phòng trọ tại địa chỉ: số E, đường N, tổ G, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì bị cáo L lấy khẩu súng bút gắn vào móc chìa khóa xe hiệu Classico mà L sử dụng. Ngày 07/8/2022, khi L đi chơi và để xe mô tô hiệu Classico và chìa khóa xe có gắn súng bút tại phòng trọ thì bị cáo P gỡ súng bút ra khỏi móc chìa khóa xe và để súng bút vào trong túi xách màu xanh đen treo lên móc trên tường gần cửa ra vào trong phòng trọ. Sáng ngày 08/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương khám xét phòng trọ tại địa chỉ nêu trên thì phát hiện và thu giữ 01 (một) khẩu súng bút và 01 (một) viên đạn. Hành vi của các bị cáo L, P đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Vụ án có tính chất đồng phạm, nhưng là đồng phạm giản đơn. Bị cáo L là người xin súng bút và đạn từ đối tượng tên C1 (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó, L cho súng bút và đạn lại cho bị cáo P. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý vũ khí quân dụng của Nhà nước, hành vi phạm tội của các bị cáo tiềm ẩn nguy cơ, điều kiện thuận lợi phát sinh các hành vi phạm tội khác, gây mất ổn định về trật tự an toàn xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục, răn đe đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là ngang nhau, vì vậy mức hình phạt để xem xét áp dụng đối với các bị cáo là tương đương nhau. Tuy nhiên, bị cáo P là người chưa thành niên khi thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 101 Bộ luật Hình sự khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo P nên mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo P thấp hơn mức hình phạt đối với bị cáo L. Xét thấy, mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là nặng, chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Đối với đối tượng tên C1 (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã cho bị cáo L cây súng bút và viên đạn thể thao, xét thấy cần kiến nghị Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh B tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) súng tự chế bắn đạn cỡ 5,6 x 15mm, thuộc nhóm vũ khí quân dụng; 01 (một) viên đạn thể thao cỡ 5,6 x 15mm là vật nhà nước cấm tàng trữ. Do đó, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

[9] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 135, 260, 292, 293, 331, 333, 414, 415, 420, 423 Bộ luật Tố tụng hình sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phan Hoài L và Ngô Hoàng P phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

2/ Về hình phạt:

2.1.Áp dụng khoản 1 Điều 304; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Hoài L 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2.2.Áp dụng khoản 1 Điều 304; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38; Điều 98; Điều 101 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Ngô Hoàng P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

3/ Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự Giao Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh B tịch thu tiêu hủy đối với 01 (một) khẩu súng tự chế và 01 (một) vỏ đạn thể thao.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2023 giữa Phòng An ninh điều tra PA09 – Công an tỉnh B và Kho Vũ khí – Đạn – Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh B).

4/ Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Phan Hoài L, Ngô Hoàng P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Kiến nghị Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh B tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ hành vi cho bị cáo L cây súng bút và viên đạn thể thao của đối tượng tên Có (hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch).

6/ Các bị cáo L, P; người đại diện hợp pháp của bị cáo P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 207/2023/HS-ST

Số hiệu:207/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về