TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 14/2023/HS-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 21 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh C xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 123/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2023/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên Đỗ Quang H, tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Sinh ngày: 05/12/1986, tại thành phố D, tỉnh D; Nơi ở hiện tại: Số 1, ngõ 42 Mai Hắc Đế, phường Y, thành phố D, tỉnh D; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đỗ Văn K sinh năm 1958; Con bà Nguyễn Thị O sinh năm 1964; Vợ: Phạm Thị Thu T sinh năm 1987; Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2015;
Tiền sự: Không;
Tiền án: Ngày 26/11/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D xử phạt 30 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng.
Nhân thân:
+ Ngày 22/12/2005 bị Toà án nhân dân tỉnh D xử phạt 39 tháng tù về tội Mua dâm người chưa thành niên.
+ Ngày 28/9/2011 bị Toà án nhân dân thành phố D xử phạt 10 tháng tù, về tội Gây rối trật tự công cộng.
+ Ngày 06/7/2012 bị Toà án nhân dân huyện K, tỉnh D xử phạt 02 năm 08 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng.
+ Ngày 14/11/2016 bị Công an thành phố D xử phạt hành chính về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.
+ Ngày 08/6/2017 bị Toà án nhân dân huyện B, tỉnh D xử phạt 27 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng.
+ Ngày 09/9/2019 bị Công an thành phố D xử phạt hành chính về hành vi Huỷ hoại tài sản của người khác.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/9/2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh C; có mặt.
Người làm chứng: Chu Nông L, sinh năm 1992, trú tại: Tổ 2, phường T, thành phố C; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 23/9/2022 tổ công tác phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh C làm nhiệm vụ tại tổ 7, phường T, thành phố C, tỉnh C phát hiện Đỗ Quang H (sinh năm 1986, trú tại: Số 6 Đinh Văn T, phường Y, thành phố D, tỉnh D) đang nhận 01 gói hàng với Chu Nông L (sinh năm 1992, là nhân viên giao hàng của Công ty Cổ phần Bưu chính Viettel). Thấy có dấu hiệu nghi vấn về hành vi tàng trữ vũ khí quân dụng, tổ công tác tiến hành kiểm tra gói hàng của H xác định bên trong có 10 vật bằng kim loại. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.
Ngày 26/9/2022 Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh C ra Quyết định trưng cầu giám định đối với 10 vật kim loại thu giữ của Đỗ Quang H.
Tại bản Kết luận giám định số 219/KL-KTHS ngày 30/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận: "Vật chứng thu giữ của Đỗ Quang H là 10 (mười) viên đạn thuộc loại đạn sử dụng cho vũ khí quân dụng, cụ thể: 05 viên sử dụng cho loại súng K54, K50..; 05 viên còn lại sử dụng cho súng K59, CZ83… Đạn sử dụng để bắn được".
Quá trình điều tra xác định được:
Ngày 22/9/2022 Đỗ Quang H liên lạc với một người đàn ông tên là D người ở thành phố Hải Phòng (không rõ họ và địa chỉ cụ thể) đặt vấn đề mua với D 05 (năm) viên đạn súng K54 và 05 (năm) viên đạn súng K59 với mục đích sẽ mua thêm súng để sử dụng phòng thân khi cần thiết, đến tối cùng ngày D thông báo đã tìm được đạn như H yêu cầu, hai bên thống nhất giá 10 (mười) viên là 3.500.000 đồng, đạn sẽ được chuyển phát qua đường bưu điện và H sẽ trả tiền cho D qua tài khoản sau 05 ngày kể từ ngày nhận được đạn, sau đó H gửi địa chỉ nơi tạm trú của mình ở tại tổ 7 phường T, thành phố C, tỉnh C để D gửi đạn cho. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/9/2022, sau khi nhận được điện thoại của Chu Nông L là bưu tá chuyển phát của Công ty Cổ phần Vietel gọi ra lấy bưu phẩm, H đi đến tổ 7 phường T để nhận gói hàng bên trong có đạn; khi H vừa nhận bưu phẩm chứa 10 viên đạn từ bưu tá thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh C phát hiện bắt quả tang.
Tại bản Cáo trạng số: 01/CT-VKSCB-P1 ngày 15/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C đã truy tố bị cáo Đỗ Quang H về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 304 của Bộ luật Hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội đánh giá các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội do đó được áp dụng khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự; Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Bị cáo Đỗ Quang H phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
- Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm h khoản 2 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 5 đến 6 năm tù.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 thiết bị điện tử.
+ Tịch thu phát mại 01 điện thoại di động bị cáo dùng để liên lạc mua đạn.
+ Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân và 01 đăng ký xe.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Bị cáo Đỗ Quang H không có lời bào chữa bổ sung, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh C, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội:
Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang bị cáo Đỗ Quang H; Bản tự khai; Biên bản ghi lời khai bị cáo cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã đủ căn cứ kết luận:
Ngày 22/9/2022 Đỗ Quang H đặt mua với một người đàn ông tên là D 05 viên đạn dùng cho súng K54 và 05 viên đạn dùng cho súng K59 với mục đích tìm mua súng để sử dụng để phòng thân. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 23/9/2022, khi H vừa nhận 10 viên đạn từ nhân viên giao hàng của Công ty bưu chính Vietel tại tổ 7 phường T, thành phố C, tỉnh C thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh C phát hiện bắt quả tang. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Quang H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng quy định tại điểm h khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.
Điều 304. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự 1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ .
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:….
h) Tái phạm nguy hiểm.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu:
+ Ngày 22/12/2005 bị Toà án nhân dân tỉnh D xử phạt 39 tháng tù về tội Mua dâm người chưa thành niên.
+ Ngày 28/9/2011 bị Toà án nhân dân thành phố D xử phạt 10 tháng tù, về tội Gây rối trật tự công cộng.
+ Ngày 06/7/2012 bị Toà án nhân dân huyện K, tỉnh D xử phạt 02 năm 08 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng.
+ Ngày 14/11/2016 bị Công an thành phố D xử phạt hành chính về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.
+ Ngày 08/6/2017 bị Toà án nhân dân huyện B, tỉnh D xử phạt 27 tháng tù, về tội Gây rối trật tự công cộng.
+ Ngày 09/9/2019 bị Công an thành phố D xử phạt hành chính về hành vi Huỷ hoại tài sản của người khác.
+ Ngày 26/11/2019 bị Toà án nhân dân thành phố D xử phạt 30 tháng tù, về tội Gây rối trật tự công cộng.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội thành khẩn khai báo (điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự);
[4] Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.
[5] Về hướng xử lý vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy 01 thiết bị điện tử.
+ Tịch thu phát mại nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động.
+ Trả lại cho bị cáo 01 đăng ký xe máy và 01 căn cước công dân mang tên Đỗ Quang H.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C về tội danh, mức hình phạt, về xử lý vật chứng và án phí đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Các vấn đề khác:
Đối với người đàn ông tên D quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch cụ thể, nên không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.
Đối với Chu Nông L quá trình điều tra xác định được khi Lập giao gói hàng cho H, anh Lập không biết đấy là vũ khí quân dụng nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
[1]. Về tội danh: Bị cáo Đỗ Quang H phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
[2]. Về hình phạt: Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Quang H 5 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị tạm giam từ ngày 23/9/2022. [3]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi “01 thiết bị điện tử màu trắng, trên mặt logo in chữ SEMART HOME, Model: Semart GSM-26; 01 thiết bị điện tử màu trắng có chiều dài 11cm, chiều rộng 5,3cm, tạm giữ của bị can Đỗ Quang H”. Mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.
- Tịch thu phát mại nộp vào Ngân sách nhà nước: 01 (Một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi “01 điện thoại IPHONE tạm giữ của bị can Đỗ Quang H”. Mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.
Trả lại cho bị cáo Đỗ Quang H: 01 (Một) đăng ký xe máy mang tên Chu Văn Tuấn, 01 (Một) căn cước công dân mang tên Đỗ Quang H.
(Vật chứng trên Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh C đã bàn giao cho Cục thi hành án dân sự tỉnh C theo biên bản giao nhận vật chứng số 52 ngày 13 tháng 01 năm 2023).
[4]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Đỗ Quang H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.
[5]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Đỗ Quang H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 14/2023/HS-ST
Số hiệu: | 14/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về