Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 09/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2024/HS-PT NGÀY 08/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 08 tháng 01 năm 2024, tại phòng xét xử trực tuyến trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H (điểm cầu thành phần: Tòa án nhân dân tỉnh G) xét xử phúc thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 799/2023/TLPT-HS ngày 13/10/2023, đối với bị cáo Phan Thanh N, do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2023/HS-ST ngày 29/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh G.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1648/2023/QĐPT-HS ngày 22 tháng 12 năm 2023.

- Bị cáo có kháng cáo: Phan Thanh N, sinh ngày 12/4/1991; Nơi thường trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh A; nơi ở hiện tại: ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh G; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: nhân viên; con ông Phan Thế H, sinh năm 1938, (chết năm 2007) và bà Lê Thị H1, sinh năm 1948; anh, chị ruột: 08 người, lớn nhất sinh năm 1970, nhỏ nhất là bị can. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo cấm đi khỏi nơi cư trú.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Thanh N là nhân viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn G, phụ trách cửa hàng G1 số 17 tại P, vào khoảng 09 giờ 50 phút ngày 13/10/2022, Phan Thanh N làm thủ tục tại Cảng hàng không Quốc tế P (thuộc ấp D, xã D, thành phố P, tỉnh G) đi đến C, nhân viên an ninh Cảng hàng không soi chiếu phát hiện trong hành lý xách tay của N có 02 viên đạn bằng kim loại chưa qua sử dụng, nên lập biên bản thu giữ. N thừa nhận đây là đạn của N, do một người thanh niên cho trước đó. Quá trình điều tra Phan Thanh N khai nhận: Vào khoảng tháng 4/2020 N có đi dự đám cưới của bạn tên Trần Phước T (ở ấp N, xã A, huyện T, tỉnh A) trong lúc ngồi nhậu có người trong bàn tiệc nói về “Trường bắn khu du lịch đòi D ở T, A” nên N nói ai có vỏ đạn cho xin về làm đồ mỹ nghệ, thì có một người thanh niên (không rõ lai lịch) trong bàn tiệc cho N 02 viên đạn, N cất vào túi áo. Hôm sau khi về đến P, N lấy 02 viên đạn trên cất vào balô để trong phòng trọ nơi N thuê ở. Đến ngày 13/10/2022 có chuyến đi C, N mang balô có chứa 02 viên đạn đi thì bị an ninh sân bay phát hiện thu giữ. Sau đó khởi tố bị can và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay.

Tại Cáo trạng số 24/CT-VKSTKG-P2 ngày 20/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh G đã truy tố bị cáo Phan Thanh N, về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2023/HS-ST ngày 29/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh G đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Phan Thanh N phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;

Xử phạt bị cáo Phan Thanh N 01 (một) năm tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo.

Ngày 05/9/2023, bị cáo Phanh Thanh N1 kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phan Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: trước đó khoảng tháng 4 năm 2020, bị cáo được một người quen cho 02 viên đạn mang về để trong ba lô cất tại phòng trọ của mình, định để làm đồ mỹ nghệ. Ngày 13/10/2022, do có việc lên C bị cáo mới lấy ba lô đựng đồ mang đi mà không nhớ việc mình có để 02 viên đạn. Tại sân bay P, khi kiểm tra an ninh thì bị phát hiện, bắt quả tang có mang theo 02 viên đạn trong ba lô nên bị lập biên bản thu giữ xử lý. Với hành vi cất giữ đạn quân dụng như trên của bị cáo Phan Thanh N là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự.

Khi lượng hình cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án, tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải sau khi phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt, từ đó cần quyết định cho bị cáo một mức án tương xứng, có thời gian cách ly bị cáo với đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như nâng cao tác dụng phòng ngừa tội phạm chung và xử phạt bị cáo mức hình phạt 01 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật không nhẹ. Bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Phan Thanh N trình bày: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt thành khẩn khai báo, lần đầu phạm tội, bị cáo phạm tội với lỗi vô ý, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, đang nuôi mẹ già 75 tuổi. Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo N xin hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để chăm sóc mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Phan Thanh N làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo: [2.1] Về tội danh:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thanh N tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời nhận tội của bị cáo, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy có đủ căn cứ pháp lý để kết luận:

Vào khoảng tháng 4 năm 2020, bị cáo được một người quen cho 02 viên đạn mang về để trong ba lô cất tại phòng trọ của mình, định để làm đồ mỹ nghệ. Ngày 13/10/2022, do có việc lên C bị cáo mới lấy ba lô đựng đồ mang đi mà không nhớ việc mình có để 02 viên đạn. Tại sân bay P, khi kiểm tra an ninh thì bị phát hiện, bắt quả tang có mang theo 02 viên đạn trong ba lô nên bị lập biên bản thu giữ xử lý. Hành vi các bị cáo Phan Thanh N thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phan Thanh N về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[2.2] Về hình phạt: Khi quyết định hình phạt, bản án sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo. Cụ thể như sau:

Khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, có nhân thân tốt để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên xét tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự của Nhà nước. Khi quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm cũng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo mức 01 năm tù là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới. Do đó kháng cáo của bị cáo không có căn cứ để chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Từ những phân tích nêu trên, xét thấy kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo N là không có căn cứ để chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H tham gia phiên toà.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Phan Thanh N.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2023/HS-ST ngày 29/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh G.

[1] Tuyên bố: Bị cáo Phan Thanh N phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;

[2] Căn cứ vào khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phan Thanh N 01 (một) năm tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phan Thanh N phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 09/2024/HS-PT

Số hiệu:09/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về