TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 22/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 22 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:
Tặng Văn O; tên gọi khác: Không; sinh ngày 05/9/1972 tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Ch, sinh năm 1950 và bà Bàn Thị M, sinh năm 1948; bị cáo có vợ là Bàn Thị H, sinh năm 1974, bị cáo có 02 con (con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh 1996); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25/01/2010, bị Công an huyện P, tỉnh Sơn La xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, phạt tiền 690.000 đồng.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/8/2023 đến ngày 09/10/2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 40 phút ngày 16/8/2023, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La phát hiện Tặng Văn O, sinh năm 1972, trú tại địa chỉ trên đang có hành vi nghi vấn liên quan đến tàng trữ trái phép vật liệu nổ. Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa chất bột màu đen và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất bột màu xám. O khai nhận là thuốc súng cất giữ để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tặng Văn O, niêm phong vật chứng thu giữ theo quy định của pháp luật.
Hồi 15 giờ 30 phút ngày 16/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã tiến thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, trích mẫu trưng cầu giám định, kết quả:
- Số chất bột màu đen có khối lượng 356,4 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu gửi trưng cầu giám định vật liệu nổ, ký hiệu là O1.
- Số chất bột màu xám có khối lượng 110,7 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu gửi trưng cầu giám định vật liệu nổ, ký hiệu là O2.
Hồi 17 giờ 15 phút ngày 16/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tặng Văn O tại bản P, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La, phát hiện, thu giữ tại kho để đồ trong nhà O: 01 khẩu súng có chiều dài 1,17m, báng súng bằng gỗ dài 37cm, nòng súng bằng kim loại dài 75,8cm, 03 ống trụ tròn rỗng bằng kim loại màu vàng dài 6,9cm, một đầu rỗng, một đầu bịt kín. Trên mặt đế bịt kín của các ống trụ đều có bám dính chất màu xanh đen.
Ngày 16/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M ra Quyết định trưng cầu giám định số: 245/QĐ-ĐCSHS trưng cầu Viện Khoa học hình sự Bộ Công an giám định vật liệu nổ đối với vật chứng thu giữ trên.
Kết luận giám định số: 6127/KL-KTHS ngày 18/8/2023 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
- Mẫu ký hiệu O1 là thuốc nổ đen thuộc nhóm vật liệu nổ, thường được dùng làm liều phóng trong các loại đạn tự chế và còn sử dụng được. Khối lượng thuốc nổ đen là 356,4 gam.
- Mẫu ký hiệu O2 là thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) thuộc nhóm vật liệu nổ, thường được dùng làm liều phóng trong các loại đạn và còn sử dụng được. Khối lượng thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) là 110,7 gam.
Ngày 17/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định số: 246/QĐ-ĐCSHS trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sơn La giám định đối với 01 khẩu súng và 03 ống trụ tròn thu giữ khi khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Tặng Văn O.
Kết luận giám định số 2027/KL-KTHS ngày 21/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận:
- Khẩu súng gửi giám định là súng bắn đạn cỡ 15x70mm, thuộc súng săn, súng vẫn còn sử dụng để bắn được.
- 03 ống trụ tròn rỗng bằng kim loại là vỏ đạn của súng săn.
Quá trình điều tra bị cáo Tặng Văn O khai nhận: Khoảng thời gian gần cuối năm 2000, Tặng Văn O đến tiểu khu TL, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La 2 chơi. Tại đây O gặp và mua được của một người nam giới không quen biết 01 khẩu súng thuộc loại súng săn tự chế và 03 vỏ đạn bằng đồng với giá 3.000.000đ. Sau khi mua được súng, vỏ đạn trên O đem về nhà cất giấu và đã sử dụng vào mục đích săn bắn động vật. Việc cất giấu và sử dụng vũ khí của O không có ai biết, cùng tham gia.
Khoảng thời gian giữa tháng 8/2023, do có nhiều động vật nhỏ phá hoại mùa màng nên O nảy ra ý định tìm mua thuốc súng về để sử dụng săn bắn. Khoảng 09 giờ ngày 16/8/2023, O đi bộ từ nhà tại bản P, xã T, huyện M đến khu vực bản NK, xã T do O biết đây là nơi có nhiều người Mông sinh sống và dễ tìm mua được thuốc súng. Tại đây, O gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 02 túi thuốc súng với giá 200.000đ. Sau khi nhận tiền người đàn ông đi đâu O không rõ, còn O cất giấu túi nilon chứa thuốc súng vào trong túi quần đang mặc rồi đi bộ về nhà. Khi đến bản P, xã T thì bị tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Nguồn gốc 356,4 gam thuốc nổ đen và 110,7 gam thuốc phóng NC (Nitroxenlulo), đều thuộc nhóm vật liệu nổ. Tặng Văn O khai nhận do mua được của một người đàn ông không quen biết. Do vậy ngoài lời khai của bị can, Cơ quan điều tra không có căn cứ mở rộng điều tra xác minh.
Đối với hành vi tàng trữ 01 khẩu súng thuộc loại súng săn và 03 vỏ đạn, Tặng Văn O khai nhận nguồn gốc súng, vỏ đạn trên mua được của một người đàn ông không quen biết từ thời gian năm 2000 nhằm mục đích sử dụng để săn bắn. Ngày 11/9/2023 UBND huyện M đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2713/QĐ-CPHC đối với Tặng Văn O về hành vi Tàng trữ súng săn trái phép, theo quy định tại điểm d khoản 4 Điều 11 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ về quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, xử phạt bằng hình thức phạt tiền 15.000.000 đồng (Tặng Văn O đã nộp phạt ngày 14/9/2023). Ngày 13/9/2023, Cơ quan huyện M đã lập Biên bản số 117/BB-TT tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với 01 khẩu súng săn, 03 vỏ đạn thu giữ trong vụ án, bàn giao cho Đội Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an M tiêu huỷ theo quy định.
Tại bản cáo trạng số 175/CT-VKS-P1 ngày 22/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố đối với bị cáo Tặng Văn O về tội Tàng trữ trái phép vật liệu nổ theo khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa: Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã thể hiện tại cáo trạng và không khai báo thêm nội dung nào khác.
* Tranh luận tại phiên tòa:
Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và Điều luật áp dụng đối với bị cáo như cáo trạng đã quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tặng Văn O phạm tội Tàng trữ trái phép vật liệu nổ.
3 Áp dụng khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Giao bị cáo cho UBND xã T quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS Đề nghị Hội đồng xét xử giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Sơn La xử lý số thuốc nổ và thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) còn lại sau khi trích mẫu gửi giám định và 01 khẩu súng săn, 03 vỏ đạn rỗng thu giữ của bị cáo.
Tịch thu tiêu huỷ đối với: 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa 356,4 gam thuốc nổ và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 110,7 gam thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) đã qua sử dụng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Bị cáo Tặng Văn O không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng giữa tháng 8/2023 đã có hành vi mua thuốc súng (thuộc nhóm vật liệu nổ) mang về sử dụng để săn bắn thì bị Tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực bản P, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La phát hiện, bắt giữ.
Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 12 giờ 40 phút ngày 16/8/2023 đối với Tặng Văn O cùng vật chứng thu giữ; Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ hồi 13 giờ 30 phút ngày 16/8/2023; Lệnh khám xét khẩn cấp số 20/LKX-CSHS ngày 16/8/2023 đối với Tặng Văn O.
- Quyết định tạm giữ số 177/QĐ-ĐCSHS ngày 16/8/2023; Quyết định gia hạn tạm giữ số 96/QĐ-ĐCSHS ngày 18/8/2023; Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 162/QĐ-ĐCSHS ngày 21/8/2023; Quyết định khởi tố bị can số 217/QĐ- ĐCSHS ngày 21/8/2023; Lệnh tạm giam số 191/LTG-ĐCSHS ngày 21/8/2023 4 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M.
- Biên bản mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng hồi 15 giờ 20 phút ngày 16/8/2023; hồi 15 giờ 30 phút ngày 16/8/2023; hồi 09 giờ 40 phút ngày 18/8/2023; hồi 14 giờ ngày 18/8/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M.
- Kết luận giám định số 6127/KL-KTHS ngày 18/8/2023 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
+ Mẫu ký hiệu O1 là thuốc nổ đen thuộc nhóm vật liệu nổ, thường được dùng làm liều phóng trong các loại đạn tự chế và còn sử dụng được. Khối lượng thuốc nổ đen là 356,4 gam (Ba trăm năm mươi sáu phẩy bốn gam).
+ Mẫu ký hiệu O2 là thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) thuộc nhóm vật liệu nổ, thường được dùng làm liều phóng trong các loại đạn và còn sử dụng được. Khối lượng thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) là 110,7 gam (Một trăm mười phẩy bảy gam).
- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Tặng Văn O đã có hành vi Tàng trữ trái phép 356,4 gam thuốc nổ và 110,7 gam thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) (Thuộc nhóm vật liệu nổ theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, năm 2017) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép vật liệu nổ, được quy định tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là lao động chính trong gia đình, là người dân tộc thiểu số, gia đình sống ở vùng sâu, vùng xa nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép 356,4 gam thuốc nổ và 110,7 gam thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) thuộc nhóm vật liệu nổ là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích sử dụng cá nhân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội; hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm vào quy định độc quyền của Nhà nước về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán và quản lý các vật liệu nổ. Về nhân thân ngày 25/01/2010, bị cáo bị Công an huyện P, tỉnh Sơn La xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, phạt tiền 690.000 đồng, bị cáo đã thi hành xong, tính đến thời điểm phạm tội đã được coi là chưa bị xử phạt vi phạm 5 hành chính.
[5] Về mức hình phạt áp dụng: Xét bị cáo phạm tội thuộc trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo luôn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, có nơi cư trú rõ ràng, có đơn xin hưởng án treo có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú, căn cứ Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2028/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo thì bị cáo có đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xét việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc cho bị cáo hưởng án treo là có căn cứ. Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời đảm bảo tính nhân đạo của pháp luật.
[5] Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 305 Bộ luật Hình sự. Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về nguồn gốc số thuốc súng thu giữ trong vụ án. Theo lời khai của bị cáo, số thuốc súng trên là do bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 02 túi thuốc súng với giá 200.000đ. Sau khi nhận tiền người đàn ông đi đâu Óc không rõ. Do vậy Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Sơn La không có căn cứ để xác minh, điều tra mở rộng vụ án.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số thuốc súng và thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) còn lại sau khi đã trích mẫu giám định, xét thấy vật chứng trên đều thuộc nhóm vật liệu nổ cần giao cho cơ quan Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Sơn La tiếp nhận, xử lý theo thẩm quyền.
Đối với 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa 356,4 gam thuốc nổ và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 110,7 gam thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) đã qua sử dụng xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.
[8] Về án phí: Bị cáo Tặng Văn O phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, 6 khoản 2 Điều 51, khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Tặng Văn O phạm tội Tàng trữ trái phép vật liệu nổ.
Xử phạt bị cáo Tặng Văn O 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi tư) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/12/2023).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Giao bị cáo Tặng Văn O cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện M, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 64, Điều 66, Điều 73 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017:
2.1. Tịch thu và giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Sơn La tiếp nhận, xử lý theo thẩm quyền gồm: 01 chiếc gói giấy còn nguyên niêm phong. Mặt ngoài gói giấy niêm phong ghi “ Vật chứng vụ Tặng Văn O – SN 1972. Tàng trữ trái phép vật liệu nổ ngày 16/8/2023”. Trên mặt gói giấy có chữ ký của giám định viên Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an và Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh Sơn La (bên trong gói giấy niêm phong 336,4 gam thuốc nổ đen ký hiệu O1; 90,7 gam thuốc phóng NC ký hiệu O2).
Theo kết luận Kết luận giám định số 6172/KL-KTHS ngày 18/8/2023 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, thì mẫu gửi giám định ký hiệu O1 là thuốc nổ đen thuộc nhóm vật liệu nổ; mẫu O2 là thuốc phóng NC (Nitroxenlulo) thuộc nhóm vật liệu nổ).
2.2. Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng vụ Tặng Văn O. Bắt ngày 16/8/2023 (01 túi nilon màu hồng, 01 vỏ túi zip nilon màu trắng; 01 vỏ gói giấy màu nâu; 01 sợi dây nilon màu đỏ và phong bì niêm phong ban đầu)”. Tại mép dán của của mặt sau phong bì có dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số 072593, phần dán giáp lai giữa giấy niêm phong và phong bì có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và ba hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/11/2023 của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Tặng Văn O phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 22 tháng 12 năm 2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ số 37/2023/HS-ST
Số hiệu: | 37/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về