Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túysố 339/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 339/2023/HS-ST NGÀY 31/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 316/2023/HSST ngày 04 tháng 10 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 397/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Huy T; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 19 tháng 09 năm 1984 tại thị xã C, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: khối H, xã N, thị xã C, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Đảng phái: không; Họ và tên cha: Phạm Huy H, sinh năm 1947; Họ và tên mẹ: Phùng Thị T1, sinh năm 1950; A, chị, em ruột có 4 người, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1984; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, T2 sự: Không; Nhân thân: Ngày 10 tháng 8 năm 2007, Tòa án nhân dân Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt Phạm Huy T 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 04/ 11/2007; Ngày 25/05/2009, Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt Phạm Huy T 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2011; Ngày 15/11/2017, Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xử phạt Phạm Huy T 2 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/09/2019; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/06/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 05 phút ngày 27/6/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên Phạm Huy T sử dụng điện thoại có số sim 0964.802.xxx gọi vào số sim 0394.677.8xx của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ hỏi mua 01 gói ma túy đá với giá tiền 300.000 đồng. Người đàn ông đồng ý bán rồi nói T chuyển tiền vào tài khoản số 0981.344.1xx thuộc Ngân hàng Q (MB) mang tên Hoàng Thị N. Thống nhất xong, T chuyển số tiền 300.000 đồng vào tài khoản trên, rồi gọi điện thoại cho người đàn ông thông báo đã chuyển tiền. Người đàn ông này nói T đi đến Ngõ A, đường N, thuộc khối V, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An để lấy ma túy. Sau đó, T điều khiển xe máy nhăn hiệu Honda Wavers màu đỏ đen bạc, biển số 37L9 - 43xx đi từ thị xã C, tỉnh Nghệ An lên điểm hẹn. Đến nơi, T gọi điện thoại cho người đàn ông thì người này hướng dẫn T đi vào ngõ A, đường N nhìn dưới cột điện thứ nhất, nhà số B, hẻm S mà lấy gói ma túy đã được để sẵn từ trước. T đi đến địa điểm trên nhìn thấy gói ma túy đá rồi dùng tay phải nhặt gói ma túy rồi điều khiển xe máy đi về để sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, T đi về đến số G, đường T thuộc khối T, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An kiểm tra hành chính. T liền ném gói ma túy đá từ tay phải qua bờ tường rào của Chi nhánh T3 thì bị phát hiện nên tổ công tác yêu cầu T vào nhặt gói ma túy giao nộp cho tổ công tác.

Sau đó, tổ công tác tiến hành thu giữ vật chứng và dẫn giải Phạm Huy T về trụ sở Công an phường Đ, thành phố V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng (Bút lục số 81, 82, 53).

Tại Kết luận giám định số 736/KTHS (Đ2 - MT) ngày 02/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Huy T gửi đến giám định là ma túy M, có khối lượng là 0,246 gam (Bút lục số 56).

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,246 gam, sau khi mở niêm phong lấy mẫu giám định còn lại 0,186 gam; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C21 - Y màu đen bên trong có số sim 0964.802.xxx. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vinh.

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wavers màu đỏ đen bạc, biển số 37L9-43xx, số máy C09E-6488401, số khung 9016Y-488561 thu giữ của Phạm Huy T. Qua xác minh, xác định chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị H1. Chị H1 cho T mượn nhưng không biết T sử dụng xe máy để đi mua ma túy. Nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã trả lại cho chị H1.

Bản Cáo trạng số 333/CT-VKS-HS ngày 02 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Phạm Huy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Huy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; xử phạt bị cáo Phạm Huy T từ 15-18 tháng tù; về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu hóa giá điện thoại di động; Về án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát thành phố V đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Phạm Huy T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 14 giờ 50 phút ngày 27/6/2023, tại khu vực trước nhà số G, đường T, thuộc khối T, phường Đ, thành phố V, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an phường Đ, thành phố V kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang Phạm Huy T đang cất giữ trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 0,246 gam, nhằm mục đích sử dụng, Phạm Huy T khai nhận mục đích cất giấu gói ma túy để sử dụng. Hành vi cất giữ ma túy với mục đích để sử dụng của Phạm Huy T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2.2]. Đánh giá tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ sức khỏe và nhận thức, có nhân thân đã từng bị Tòa án xét xử về tội phạm ma túy, thấy được tác hại do ma túy mang lại cho con người và xã hội, nhưng bị cáo không phòng, tránh mà lại tiếp tục sa vào con phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo HĐXX thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có người có công với cách mạng, được nhà nước tặng thưởng huân huy chương. Vậy nên, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật để cải tạo tốt, sớm hòa nhập với cộng đồng xã hội, trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[2.3] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo Đ tại phiên tòa cho thấy nghề nghiệp của bị cáo là lao động tự do, thu nhập và công việc không ổn định, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[2.4]. Trong vụ án này, theo lời khai của Phạm Huy T thì T sử dụng điện thoại gọi vào số sim 0394.677.8xx của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ để mua ma túy. Quá trình điều tra, xác minh người sử dụng số sim 0394.677.8xx mang tên đăng ký là Nguyễn Thị L, sinh năm 1985, nơi cư trú thôn A, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương. Chị Nguyễn Thị L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên nhưng hiện nay đi làm ăn xa, từ lâu không về địa phương sinh sống, không ai biết làm gì, ở đâu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V không có căn cứ để xử lý. Phạm HuyTài đã chuyển số tiền 300.0000 đồng vào tài khoản có số 09813441xx Ngân hàng Q (MB) mang tên Hoàng Thị N để mua ma túy. Quá trình điều tra, xác minh số tài khoản 09813441xx mang tên đăng ký là Hoàng Thị N, sinh năm 1993, địa chỉ xã Đ, huyện A, tỉnh Hải Phòng. Tuy nhiên, qua xác minh tại Công an xã Đ, huyện A, tỉnh Hải Phòng thì tại địa phương không có người nào có họ tên là Hoàng Thị N. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V không có căn cứ để xử lý.

[2.5]. Về vật chứng trong vụ án: Ma túy (Methamphetamine) thu giữ của bị cáo Phạm Huy T là vật Nhà nước cấm nên cần tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại di động là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, hóa giá sung quỹ nhà nước.

[2.6]. Bị cáo Phạm Huy T phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt Phạm Huy T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/06/2023.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo Phạm Huy T; tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhân hiệu Realme C21 - Y màu đen bên trong có số sim 0964.802.xxx. Vật chứng có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 2024/21 ngày 23/10/2023.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Huy T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túysố 339/2023/HS-ST

Số hiệu:339/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về