Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 99/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S D, TỈNH T Q

BẢN ÁN 99/2022/HS-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 08/9/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S.D, tỉnh T.Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2022/TLST-HS, ngày 15 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2022/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

P.M.H, sinh ngày 13/11/1979 tại huyện S.D, tỉnh T.Q; Nơi cư trú: Thôn B.C, xã K.N, huyện S.D, tỉnh T.Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: P.X.N, sinh năm 1948 và bà: Đ.T.S, sinh năm 1959; vợ, con: Chưa có; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ 01.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại bản án số 13/2005/HS-ST ngày 13/7/2005 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phạt tiền 5.000.000đ, án phí 50.000đ. (Chấp Hnh xong toàn bộ bản án ngày 06/6/2014);

+ Tại bản án số 39/2019/HS-ST ngày 04/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện S.D, tỉnh T.Q xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, án phí 200.000đ. (Chấp Hnh xong toàn bộ bản án ngày 14/01/2020);

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện S.D, tỉnh T.Q (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 29/6/2022 P.M.H là người sử dụng chất ma túy đi xe khách đến khu vực xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy về sử dụng. Tại khu vực xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, H gặp và hỏi mua của một người đàn ông không xác định được tên, tuổi, địa chỉ được 02 gói ma túy gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng, với số tiền 500.000đ. Sau đó H đi xe khác để về nhà, khi đi đến thôn T.T, xã K.N, huyện S.D H xuống đi bộ vào chỗ vắng người lấy một ít ma túy vừa mua được ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày H cất giấu số ma túy còn lại vào túi quần bên trái đang mặc và tiêp tuc đi về nhà thì bị Tổ công tác của Công an xã K.N kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 13 giờ 45 phút cùng ngày. H tự giác giao nộp 02 gói ma túy bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng.

Tiến Hnh xét nghiệm tìm chất ma túy bên trong cơ thể P.M.H, kết quả (+) dương tính với ma túy.

Kết luận giám định số 791/GĐKTHS ngày 06/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q. Kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine; khối lượng 0,225g (không phẩy hai hai năm gam).

Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S.D đã tạm giữ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa ma túy (đã giám định) bên ngoài mặt sau các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và P.M.H, mặt trước ghi “Tang vật vụ P.M.H giám định ngày 29/6/2022”.

Tại Cáo trạng số 97/CT-VKSSD, ngày 15/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện S.D đã truy tố P.M.H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo P.M.H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo P.M.H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (29/6/2022).

Do bị cáo không có tài sản nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa ma túy (đã giám định) bên ngoài mặt sau các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong P.M.H, mặt trước ghi “Tang vật vụ P.M.H giám định ngày 29/6/2022”.

- Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu tiền án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ Hnh vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo nhận thức được Hnh vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

Về tội danh: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa; căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội qủa tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút, ngày 29/6/2022, tại khu vực thôn T.T, xã K.N, huyện S.D, tỉnh T.Q, P.M.H có Hnh vi tàng trữ trái phép 0,225g (không phẩy hai hai năm gam) Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S.D truy tố P.M.H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

[2] Hnh vi phạm tội của bị cáo là Hnh vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của NH nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, gây thiệt hại về kinh tế và ảnh hưởng đến sức khỏe cho người sử dụng. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, sau khi chấp Hnh xong hình phạt trở về địa phương, bị cáo không lấy đó làm bài học từ bỏ ma túy và trở thành con người tốt mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với Hnh vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đường lối xử lý đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, bị cáo có bố đẻ là P.X.N được UBND xã K.N xác nhận là người có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của Hnh vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Quá trình điều tra xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong có chứa chất ma túy (đã giám định) mặt sau trên các mép dán có chữ ký của P.M.H, các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q. Đây là vật chứng của vụ án thuộc danh mục NH nước cấm lưu Hnh nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Về Hnh vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo đã bị Công an huyện S.D ra quyết định xử phạt vi phạm Hnh chính bằng hình thức phạt tiền.

Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tố tụng: Hnh vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S.D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S.D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo P.M.H không có ý kiến hoặc khiếu nại về Hnh vi, quyết định của Cơ quan tiến Hnh tố tụng, người tiến Hnh tố tụng. Do đó, các Hnh vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến Hnh tố tụng, người tiến Hnh tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên bố: Bị cáo P.M.H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo P.M.H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (29/6/2022).

2. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa ma túy (đã giám định) bên ngoài mặt sau các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.Q, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và P.M.H, mặt trước ghi “Tang vật vụ P.M.H giám định ngày 29/6/2022”.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.D và Chi cục Thi Hnh án dân sự huyện S.D) 3. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 99/2022/HS-ST

Số hiệu:99/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về