Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 99/2021/HS-PT NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo N.T.N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HSST ngày 30 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.

Bị cáo có kháng cáo: N.T.N, sinh năm 1994 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A, xã A, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông N.V.L và bà N.T.C; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

N.T.N là công nhân làm thuê tại khu công nghiệp Giao Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Trong thời gian làm thuê, N.T.N quen biết và nhiều lần cùng nhau sử dụng ma túy với đối tượng tên H (không rõ lai lịch).

Vào khoảng 19 giờ ngày 18/7/2021, N.T.N chuẩn bị về nhà ở huyện Ba Tri thì gặp H, H rủ N.T.N sử dụng ma túy rồi cho N.T.N một túi ma túy mang về nhà sử dụng. Đến khoảng 20 giờ 30 phút ngày 20/7/2021, N.T.N giấu túi ma túy vào cái ví bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe môtô biển số 71C1-xxx.xx từ nhà ở xã A ra xã T (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) để chở P.T.C.T đi chơi. Khi đến chốt kiểm soát dịch Covid-19 ở ấp A, xã T, P.T.C.T và N.T.N bị lực lượng chức năng yêu cầu về trụ sở Công an xã T để làm rõ lý do ra đường theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng chống dịch Covid-19 thì lực lượng Công an phát hiện N.T.N cất giấu ma túy trong người nên lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang.

Vật chứng và tài sản thu giữ, gồm:

- 01 túi nilon kích thước 02cm x 02cm, ba mặt cạnh hàn kín, cạnh còn lại có rãnh bấm viền màu xanh, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng được thu giữ bên trong ngăn ngoài cùng có mặt nhựa trong suốt của ví da màu đen được niêm phong trong phong bì ký hiệu T01; 01 ví da bằng nhựa dẻo màu đen kích thước 23cm x 10cm có chữ BOSSHOSS được niêm phong trong phong bì ký hiệu T02.

- 01 giấy chứng minh nhân dân số 321521865; 01 giấy phép lái xe số xxxxxxxxxxx; 01 giấy đăng ký xe số xxxxxx và 01 xe môtô biển số 71C1-xxx.xx của N.T.N. Cơ quan điều tra đã giao trả toàn bộ giấy tờ và xe môtô cho N.T.N.

Tại Bản kết luận giám định số 80/2021/GĐMT ngày 23/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon được niêm phong trong phong bì ký hiệu T01 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1202 gam. Hoàn lại mẫu vật và vỏ bao gói sau giám định đã được niêm phong trong phong bì số 80/2021 có khối lượng 0,0761 gam.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2021/HS-ST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, đã quyết định: Tuyên bố bị cáo N.T.N phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.N 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/10/2021 bị cáo N.T.N kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt tù và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận hành vi phạm tội phù hợp nội dung bản án sơ thẩm.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo N.T.N phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và xử phạt bị cáo N.T.N 01 (một) năm tù. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo N.T.N 01 (một) năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Lời nói sau cùng, bị cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/7/2021 tại trụ sở Công an xã T, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, lực lượng Công an kiểm tra hành chính theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ thì phát hiện N.T.N tàng trữ chất ma túy với khối lượng 0,1202 gam loại Methamphetamine. Với ý thức, hành vi và khối lượng chất ma túy mà N.T.N đã tàng trữ, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo N.T.N phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm khi áp dụng hình phạt tù đã xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có anh ruột tham gia và phục vụ trong quân đội được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Huy chương Chiến sĩ vẻ vang” và nhiều giấy khen của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre theo tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo cung cấp Giấy xác nhận gia đình có công với đất nước và các Bằng Tổ quốc ghi công, Danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng của ông, bà cố của bị cáo. Xét các tình tiết bị cáo cung cấp thêm thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù là mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố và không cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp nên được giữ nguyên. Do vậy, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo như đề nghị của Kiểm sát viên.

[4] Về án phí: Bị cáo N.T.N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo N.T.N phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo N.T.N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo N.T.N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-PT

Số hiệu:99/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về